Thẻ vàng với thủy sản Việt Nam từ EU đã khiến ngành này rơi từ vị trí số 1 xuống thứ 4 các mặt hàng xuất khẩu vào Việt Nam. Ảnh minh họa.

Ông Nguyễn Quang Hùng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho hay, vấn đề quan trọng khiến EC chưa gỡ “thẻ vàng” cho Việt Nam là việc cấp giấy chứng nhận, xác nhận sản phẩm thủy sản khai thác còn rất nhiều sai sót; công tác kiểm soát số lượng tàu cá ra vào cảng còn nhiều bất cập. Hệ thống giám sát chưa đáp ứng yêu cầu, tình trạng tàu cá vi phạm vùng biển của nước ngoài vẫn còn tiếp diễn rất phức tạp. Mức xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm của Việt Nam vẫn còn thấp nên chưa tạo được sự răn đe và chưa tương đồng với một số nước trong khu vực và thế giới.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), mặc dù chưa ảnh hưởng nhiều nhưng kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang châu Âu đã bị chững lại. Chiếc “thẻ vàng” mà Liên minh châu Âu (EU) áp dụng với thủy sản Việt Nam đã kéo thị trường này từ vị trí là nhà tiêu thụ thủy sản số 1 năm 2017 xuống thứ 4 trong 6 tháng đầu năm 2018. Nếu như năm 2017, EU vượt qua Mỹ trở thành thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam với trị giá đạt gần 1,46 tỉ USD, tăng 22% so với năm 2016 thì đến hết tháng 6/2018, xuất khẩu thủy sản vào EU chỉ đạt 584 triệu USD, đứng thứ 4 trong nhóm các thị trường tiêu thụ chính của Việt Nam sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc.

Trước thực trạng trên, Bộ NN&PTNT xác định, gỡ “thẻ vàng” là nhiệm vụ trọng tâm đặt ra đối với toàn ngành để giữ vững mục tiêu tăng trưởng thời gian tới. Song, để khắc phục được “thẻ vàng” thủy sản Việt Nam không đơn giản bởi còn nhiều khó khăn thách thức.

Cụ thể, việc kiểm soát đánh bắt, truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác còn nhiều lỗ hổng. Hiện nay, Việt Nam có gần 133.000 tàu cá, trong đó khoảng 33.000 tàu cá đánh bắt xa bờ (công suất 90 CV trở lên), nhưng chỉ khoảng 3.000 tàu được lắp thiết bị định vị vệ tinh. 33.000 tàu nhưng chỉ mới gắn thiết bị được 3.000 tàu, đây là con số rất ít ỏi. Nhưng điều đáng nói hơn là mặc dù 3.000 tàu được lắp định vị nhưng số lượng tàu bật định vị 24/24 trên ngư trường rất ít. Bởi các tàu lắp định vị nhưng khi ra khơi thường tắt định vị để giấu ngư trường. Trong khi đó, để kiểm soát vùng đánh bắt cá nếu thiếu định vị việc kiểm soát vi phạm rất khó.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNN Nguyễn Xuân Cường cho hay, 6 tháng không phải là thời gian đủ nhiều để chúng ta xoay chuyển tình thế từ “nghề cá nhân dân” sang “nghề cá khai thác có trách nhiệm bền vững”. Việc trang bị thiết bị cho lực lượng tàu thuyền khai thác với số lượng 133.000 tàu thuyền là câu chuyện hoàn toàn không đơn giản.

Bên cạnh đó, ngư dân chưa có thói quen ghi chép nhật ký khai thác và chúng ta hiện cũng chưa có chế tài xử phạt cũng như bắt buộc đối với ngư dân phải ghi chép sổ nhật ký. Điều này dẫn đến việc xác nhận chứng nhận nguồn gốc thủy sản còn nhiều sai sót. Việc chứng nhận hải sản khai thác còn nhiều bất cập, các địa phương chưa sát sao trong việc chỉ đạo các đơn vị chức năng thực hiện các biện pháp khắc phục…Bên cạnh đó là những khó khăn khi phải chuyển từ tập quán đánh bắt tự nhiên sang hình thức khai thác trách nhiệm (có khai báo sổ sách, ngư trường); những bất cập về cơ sở hạ tầng từ bến cảng, khu neo đậu, bến cá… Do đó, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong quá trình thực hiện. Đặc biệt là trách nhiệm của ngư dân, doanh nghiệp, cơ quan quản lý phải rõ hơn, quyết liệt hơn thì mới sớm gỡ bỏ được “thẻ vàng”.

Ánh Phương