Sinh ra và lớn lên tại Thạch An, có nhiều điều để tôi tự hào về mảnh đất này. Đông Khê, thị trấn của Thạch An là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đài quan sát theo dõi và chỉ đạo trận đánh cứ điểm Đông Khê – trận đánh mở màn cho Chiến dịch Biên giới 1950. Thạch An cũng là nơi sinh sống của 6 dân tộc đó là các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh, Hoa. Trong đó, người Tày, Nùng có những nét văn hóa rất riêng trong ngày Tết cổ truyền.
Đầu tiên có thể kể tới lễ “Lấy nước mới” hay còn gọi là “Au nặm mấư”, được thực hiện ngay sau thời khắc giao thừa. Đây là tục người dân ra mỏ nước hay giếng làng lấy nước vào những giây phút đầu năm mới. Khi đi mang theo xô, chậu để lấy nước, mang theo hương để thắp và vàng mã để đốt trước khi lấy “nước mới”, tạ ơn thần nước đã phù hộ cho một năm cũ đủ đầy, mùa màng bội thu, đồng thời cầu nguyện cho một năm mới bình an, may mắn. Nước mới lấy về được đun sôi cùng với lá bưởi rồi đổ ra bát con đem lên bàn thờ thắp hương, nước còn lại để mọi người trong nhà rửa mặt. Theo quan niệm của đồng bào nơi đây, lá bưởi là biểu tượng của phước lành, diệt trừ tà ma, rửa mặt nước lá bưởi vào thời khắc mới chuyển giao sang năm mới giống như gột rửa đi những gì xấu xa, xui xẻo của năm cũ, sẵn sàng đón một năm mới thuận lợi hơn.

Người dân lấy nước đầu nguồn vào dịp đầu năm mới.
Một phong tục khác, đó là cúng thổ công. Khác với đồng bào dân tộc Kinh – cúng thổ công ở trước nhà, đồng bào dân tộc Tày – Nùng có tục cúng thổ công chung ở miếu thổ công của làng. Sáng mùng 1 Tết tất cả các gia đình đều cử đại diện ra cúng thổ công. Mỗi làng đều có một miếu thổ công riêng. Khi ra cúng, người dân mang một số món truyền thống có trong ngày tết người Tày – Nùng như gà luộc, kho sao, canh măng khô, bánh chưng (thường là bánh chưng Tày), bánh khảo, bánh cười, ngoài ra còn mang thêm chén, đũa (mang số lẻ 3-5-7 chén, đũa), rượu, bánh kẹo, hương, vàng mã. Miếu nhỏ mà mọi nhà đều mang lễ nên mọi người thường bày mâm cả ở sân miếu. Sau khi bày cỗ xong, rót rượu cúng thổ công, thắp 1 lần hương lên ban thờ trong miếu, ngoài sân miếu, dán giấy đỏ lên cửa miếu (ai đem thì cứ dán, không mang cũng không sao). Rồi mọi người ngồi trò chuyện với nhau về Tết, về địa điểm chơi Tết, ước chừng thời gian nén hương đầu hết thì thắp hương lại lần nữa, rót rượu cửa miếu, đốt vàng mã rồi dọn lễ về. Ngày xưa, những người đi cúng thổ công phải là đàn ông trụ cột trong nhà, tuy nhiên giờ đã tiến bộ hơn nên cả thanh niên, con gái đều đi được.
Còn một điểm vô cùng đặc biệt, người Tày – Nùng kiêng sáng sớm mùng 1 không gọi tên, sai khiến. Sở dĩ phải kiêng như vậy vì họ cho rằng mọi chuyện phải chủ động, tự giác, mùng 1 mà thụ động là cả năm không thể làm chủ được công việc của mình.
Đối với những người con gái đi lấy chồng, họ có một tục rất đặc biệt. Đó là “Đi tái” hay còn được gọi là “pây tái”, đây là tục con gái đã đi lấy chồng trở về nhà thăm và ăn Tết cùng bố mẹ đẻ. Theo đồng bào nơi đây, vì tâm lý lo sợ, ngại ngùng của dâu mới nên cô dâu sẽ được ăn Tết năm đầu tiên tại nhà bố mẹ đẻ, từ năm thứ 2 trở đi sẽ ăn tết tại nhà nội nên tục “đi tái” sẽ bắt đầu thực hiện từ cái Tết thứ hai. Thông thường, thực hiện “đi tái” bao gồm cả vợ chồng và con cái (nếu có), khi “đi tái” mang theo 1 con gà, bánh khảo, bánh chưng, bánh gai và một ít bánh kẹo thắp hương nhà ngoại. Tục này mang ý nghĩa như con gái trong nhà đã lấy chồng, làm lụng bên nhà chồng, cả năm mới được một ngày về thăm bố mẹ đẻ nên mang một ít lễ như của cải làm được trong năm đem về biếu bố mẹ. Tuy nhiên, ngày nay xã hội đã tiến bộ hơn nhiều, ngày “đi tái” không còn là ngày về biếu quà bố mẹ nữa mà sự có mặt của con cháu trong Tết, cùng nhau ăn bữa cơm sum vầy là điều quan trọng nhất, nên người ta không còn quá chú trọng đến việc mang đủ “lễ” như xưa.

Tục đi tái.
Với tôi, năm nay là năm đầu tiên ăn Tết tại nhà nội, mặc dù đã khá quen thuộc với bố mẹ chồng, tuy nhiên vẫn không khỏi bỡ ngỡ, lo lắng cho cái Tết sắp tới vì giờ đã trở thành người phụ nữ phải lo toan nhà cửa, mua sắm Tết, nấu cỗ bàn và thăm nom họ hàng hai bên. Lần đầu ăn Tết xa nhà nên cũng cảm thấy có chút gì đó hụt hẫng trong lòng, chỉ mong sớm đến mùng 2 “đi tái” để về nhà ăn cơm với bố mẹ”. Tuy nhà nội cách nhà bố mẹ đẻ 40km, bằng 1 tiếng đi xe thôi, nhưng Tết mới là dịp đặc biệt nhất, mong chờ nhất để về nhà đoàn tụ, dịp để anh chị em họ hàng làm ăn xa gặp nhau đông đủ hơn một chút.
Giờ đây, do sự sinh sống đan xen giữa các dân tộc với nhau, các phong tục mang tính bản sắc đã phần nào phai nhạt. Xuôi theo dòng chảy văn hóa, những người trẻ không còn dành nhiều quan tâm tới những phong tục ấy nữa. Là một người con của vùng đất Thạch An, được sống trong không khí văn hóa truyền thống của dân tộc Tày – Nùng, tôi vô cùng tiếc nuối khi từng ngày từng ngày nhìn thấy những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mình ngày càng mai một. Chỉ hi vọng rằng, có thể góp một phần nào đó để bảo tồn văn hóa dân tộc, để những bản sắc ấy mãi tươi đẹp theo thời gian.
HỒNG KHUYÊN