Hình minh họa.

Bài viết giới thiệu các nhân tố ảnh hưởng đến Trình độ dân trí kinh tế số của sinh viên trên địa bàn Hà Nội. Sử dụng thước đo và mô hình thích hợp ứng dụng vào dữ liệu thực tế nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đưa ra kết quả đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến trình độ dân trí kinh tế số của sinh viên trên địa bàn Hà Nội đồng thời qua đó đưa ra một số gợi ý chính sách, khuyến nghị giúp nâng cao trình độ dân trí kinh tế số trên địa bàn Hà Nội.

Trình độ dân trí kinh tế số

“Kinh tế số” (digital economy) thực sự là một khái niệm khó định nghĩa và cũng không hề dễ dàng để đo lường cụ thể nó do tính thay đổi không ngừng của công nghệ số. Nhiều tổ chức lớn như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD, 2015), G20 hay ngay cả từ điển Oxford cũng đưa ra những khái niệm khác nhau về phạm vi và quy mô của kinh tế số. Do yếu tố thay đổi và phát triển liên tục, các nhà khoa học không còn cố gắng định nghĩa kinh tế số là gì nữa mà chỉ đơn giản hiểu nó với ý nghĩa là một “nền kinh tế dựa trên công nghệ số”. Hay theo Elmasry, kinh tế số không phải là một quan niệm, mà nó là một phương thức, một cách thức để chúng ta làm mọi việc.

Các lĩnh vực của “nền kinh tế số”

“Dân trí” là khái niệm chỉ chung về trình độ nhận thức hay mặt bằng văn hóa chung của một cộng đồng hay nhóm dân cư ở 1 phạm vi nhất định”. Từ các khái niệm nêu trên nhóm tác giả đã đúc kết được khái niệm về “Trình độ dân trí kinh tế số”: Trình độ dân trí kinh tế số hay còn gọi trình độ kinh tế số, năng lực kinh tế số là kỹ năng sử dụng dữ liệu, thông tin và công nghệ kỹ thuật số để tìm kiếm, đánh giá và nghiên cứu, phân tích các vấn đề về kinh tế, từ đó tạo ra thông tin rõ ràng thông qua văn bản và các phương tiện khác trên các nền tảng kỹ thuật số khác nhau của mỗi cá nhân trong một cộng đồng.

Thực trạng trình độ dân trí kinh tế số của sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội

Thông qua việc tiến hành khảo sát 262 người, thuộc đối tượng là sinh viên, trong đó có 125 kết quả khảo sát là khảo sát trực tiếp từ các sinh viên đang theo học tại Hà Nội, còn lại sử dụng Google biểu mẫu để lấy khảo sát của sinh viên thuộc các ngành khác nhau và các trường đại học khác nhau trong khu vực (Học viện Ngân Hàng, Đại học Thương Mại,…)

Theo kết quả thống kê mô tả: số lượng sinh viên nam tham gia khảo sát ở các trường đại học là 92 người chiếm khoảng 35%, số lượng sinh viên nữ tham gia khảo sát là 170 người chiếm tỉ lệ 65%.

Biểu đồ 2 mô tả chuyên ngành đang theo học của đối tượng tham gia khảo sát. Trong số 148 người thuộc chuyên ngành kinh tế/tài chính/ngân hàng/ngoại thương/thương mại, chiếm khoảng 56.5%, trong khi ngành công nghệ thông tin và kỹ thuật chỉ có 34 người, chiếm khoảng 13%. Sinh viên theo chuyên ngành CNTT và kỹ thuật sẽ có năng lực công nghệ số mạnh hơn so với các ngành khác do yếu tố chuyên ngành. Sự chênh lệch này sẽ giúp kết quả đạt được sẽ đánh giá chính xác hơn năng lực kinh tế, kỹ thuật số của sinh viên thuộc các nhóm ngành không chuyên về CNTT.

Chuyên ngành đang theo học của sinh viên tham gia khảo sát

Chú thích:
1, Kinh tế/tài chính/ngân hàng/ngoại thương/thương mại: 148 người
2, Công nghệ thông tin và ngành kỹ thuật: 34 người
3, Ngoại ngữ: 16 người
4, Đào tạo nghề: 4 người
5, Khác: 60 người

Bên cạnh đó sử dụng mô hình thích hợp ứng dụng vào dữ liệu thực tế nghiên cứu ta rút ra được phương trình mô phỏng năng lực số của sinh viên trên địa bàn Hà Nội, các yếu tố cùng mức độ ảnh hưởng đến năng lực số của sinh viên trên địa bàn Hà Nội.

Phương trình/ mô hình mô phỏng năng lực số của sinh viên trên địa bàn Hà Nội là:

Mức độ quan trọng của các yếu tố.

Đây cũng là cơ sở để nhóm tác giả đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao trình độ dân trí kinh tế số của sinh viên trên địa bàn Hà Nội.

Một số hàm ý chính sách

Nhìn chung trình độ kinh tế số của sinh viên trên địa bàn Hà Nội mới chỉ dừng lại ở mức hiểu biết và khả năng sử dụng các thông tin và công nghệ kỹ thuật số còn chưa phổ biến. Như vậy, muốn có nguồn nhân lực có thể đáp ứng được sự thay đổi của chuyển đổi số cần triển khai một số hàm ý chính sách như sau:

Về phía cơ quan chính phủ:

– Cải thiện khung pháp lý liên quan đến nền kinh tế số: Quốc hội nên sớm nghiên cứu, rà soát sửa đổi nội dung các Luật như Luật thanh niên, Luật Giáo dục, Luật Doanh nghiệp,… để có những điều chỉnh thích hợp nhất là tới các nội dung liên quan đến trình độ dân trí kinh tế số của sinh viên. Bổ sung các điều luật về công nghệ để thúc đẩy nhận thức đối với tầm quan trọng và sự hữu dụng của công nghệ đem lại tới cho cuộc sống là rất cần thiết, và từ đó cũng giúp cải thiện tốt hơn trình độ dân trí kinh tế số đặc biệt là của sinh viên.

– Cải thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia: Chú trọng việc nâng cao, cải thiện hệ thống cơ sử dữ liệu quốc gia như cơ sở dữ liệu về dân cư, đất đai, tài nguyên và môi trường, bổ sung thêm các quyết định nào mang tính chất chuyên sâu để nâng cao hệ thống cơ sở dữ liệu dựa về công nghệ số, kinh tế số.

Về phía các cơ sở đào tạo

– Hàm ý cho Bộ GD&ĐT: Cần có những phương án, quyết định kịp thời để cải thiện hơn nữa việc đưa công nghệ số vào giảng dạy tại các cấp học, cải thiện chất lượng đào tạo các môn khoa học nói chung và môn tin học nói riêng, để học sinh, sinh viên hiểu rõ hơn nữa tầm quan trọng của khoa học máy tính với tương lai bản thân sau này. Chỉnh lý, bổ sung giảng dạy thêm nhiều hơn vấn đề đạo đức trong thế giới số. Các môn học Đạo đức (cấp Tiểu học) và Giáo dục công dân (cấp trung học, phổ thông) cần đề cập nhiều đến các vấn đề đạo đức khi tham gia vào thế giới số, các vấn đề về bảo mật, an toàn thông tin và trách nhiệm của xã hội.

– Hàm ý cho các trường đại học: Cần tăng tỷ trọng các môn về công nghệ hoặc kết hợp với công nghệ trong chương trình đào tạo. Đồng thời cũng cần nâng cao hệ thống thông tin bắt kịp với kiến thức ở các nước đang phát triển về kinh tế và công nghệ. Thực hiện các giải pháp để nâng cao nâng cao hệ thống cơ sở vật chất tại các trường ĐH, hỗ trợ trong việc chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, tổ chức khen thưởng các tổ chức xuất sắc trong công cuộc đổi mới giảng dạy, tiên phong trong việc tăng cường số hoá trong giảng dạy để có được chất lượng đào tạo tốt nhất cho sinh viên tiếp thu những tinh hoa công nghệ cả trong nước và trên thế giới.

Về phía các doanh nghiệp

Doanh nghiệp cần có những chính sách và cơ chế tuyển dụng phù hợp để sinh viên hiểu được tầm quan trọng của năng lực công nghệ số và cải thiện để phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, bên cạnh đó cần có những chính sách phúc lợi khen thưởng hợp lý thỏa đáng, mức lương hấp dẫn,… Từ các yếu tố nêu trên có thể làm tăng động lực học hỏi, tìm tòi các kiến thức công nghệ của sinh viên và cũng làm cho trình độ dân trí kinh tế số trong sinh viên được cải thiện một cách đáng kể.

Về phía bản thân sinh viên

Sinh viên tình nguyện tham gia đội hình hỗ trợ công tác chống dịch Covid-19.

Sinh viên cần phải tích cực học tập, đổi mới, sáng tạo hơn nữa trong việc học tập, tiếp thu kiến thức; nâng cao năng lực tự học, tìm kiếm thông tin… đặc biệt là trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp như hiện nay, khi việc học và thi online càng khó để thực hành hơn. Thêm vào đó, sinh viên cũng phải ý thức được việc nâng cao đạo đức, trách nhiệm xã hội khi tham gia sử dụng công nghệ số, kinh tế số. cũng như tiếp thu kiến thức công nghệ một cách trọn vẹn. Đồng thời cần chủ động tìm hiểu về công nghệ số, kinh tế số để nâng cao trình độ và hiểu biết của bản thân vận dụng vào việc học sao cho tiết kiệm thời gian và hiệu quả học tập mang lại là lớn nhất.

TS. NGUYỄN TƯỜNG VÂN (Khoa Ngân hàng, HVNH)
THS. LÊ VĂN HINH (Ngân hàng Nhà nước)
VŨ PHONG – ĐINH THỊ NGÀ (Khoa Ngân hàng, HVNH)
TRẦN THANH TÙNG (Khoa Tài chính, HVNH)

Tài liệu tham khảo:
1,Nghiên cứu Phát triển năng lực ngân hàng số và công nghệ tài chính của ngành ngân hàng: Thực trạng và khuyến nghị đào tạo cho cán bộ ngân hàng ngân hàng thương mại ở Việt Nam (Vĩnh & Huấn, 2020).
2, Năng lực công nghệ số của sinh viên đáp ứng nhu cầu xã hội. Nghiên cứu mô hình ứng dụng sơ khởi tại Việt Nam (Tấn, 2019)
3, Thủ tướng Chính phủ (2020), Nghị quyết số:136/NQ-CP năm 2020 của Chính Phủ về phát triển bền vững.
4, Bộ_KH&CN. (2020). Kinh tế số: Tác động, cơ hội và khả năng tận dụng của Việt Nam.
5, BTT&TT. (2021). Báo cáo chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam năm 2020 (ICT Index 2020).
6, Xu hướng phát triển kinh tế số trên thế giới và hàm ý cho Việt Nam (Đ.V.Sáng, 2020).