Điều kiện hoạt động kinh doanh chăn nuôi trang trại
Đối với các chăn nuôi trang trại nói chung: Chăn nuôi trang trại phải đáp ứng các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật Chăn nuôi 2018, cụ thể như sau:
- Vị trí xây dựng trang trại phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, vùng, chiến lược phát triển chăn nuôi; đáp ứng yêu cầu về mật độ chăn nuôi quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 53 Luật Chăn nuôi 2018;
- Có đủ nguồn nước bảo đảm chất lượng cho hoạt động chăn nuôi và xử lý chất thải chăn nuôi;
- Có biện pháp bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường;
- Có chuồng trại, trang thiết bị chăn nuôi phù hợp với từng loại vật nuôi;
- Có hồ sơ ghi chép quá trình hoạt động chăn nuôi, sử dụng thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, vắc-xin và thông tin khác để bảo đảm truy xuất nguồn gốc; lưu giữ hồ sơ trong thời gian tối thiểu là 01 năm sau khi kết thúc chu kỳ chăn nuôi;
- Có khoảng cách an toàn từ khu vực chăn nuôi trang trại đến đối tượng chịu ảnh hưởng của hoạt động chăn nuôi và từ nguồn gây ô nhiễm đến khu vực chăn nuôi trang trại.
Đối với tổ chức, cá nhân chăn nuôi trang trại quy mô lớn phải được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi. Khi đó, tổ chức, cá nhân phải tiến hành thực hiện các trình tự, thủ tục theo quy định đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn.
Cụ thể tại khoản 2, 3 Điều 23 Nghị định 13/2020/NĐ-CP quy định như sau:
- Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn bao gồm:
+ Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn theo Mẫu số 01.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định 13/2020/NĐ-CP ;
+ Bản thuyết minh về điều kiện chăn nuôi theo Mẫu số 02.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định 13/2020/NĐ-CP ;
Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn được quy định như sau:
+ Tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ quy định ở trên đến cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định 13/2020/NĐ-CP, cụ thể: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn tại địa phương; Trường hợp cơ sở chăn nuôi trang trại quy mô lớn nằm trên địa bàn từ hai tỉnh trở lên, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nơi tổ chức, cá nhân đăng ký thủ tục đầu tư thực hiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn.
+ Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, cơ quan có thẩm quyền thẩm định nội dung hồ sơ.
Trường hợp hồ sơ chưa đạt yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân bổ sung, hoàn thiện hồ sơ.
Trường hợp hồ sơ đạt yêu cầu, trong thời hạn 20 ngày làm việc cơ quan có thẩm quyền thành lập đoàn đánh giá điều kiện thực tế của cơ sở chăn nuôi theo quy định tại Điều 24 Nghị định 13/2020/NĐ-CP .
Trường hợp cơ sở không đáp ứng điều kiện, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày lập biên bản đánh giá, tổ chức, cá nhân khắc phục và gửi báo cáo kết quả khắc phục bằng văn bản đến cơ quan có thẩm quyền để được thẩm định và đánh giá lại điều kiện thực tế (nếu cần thiết).
Trường hợp cơ sở đáp ứng điều kiện, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đánh giá điều kiện thực tế, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi theo Mẫu số 05.ĐKCN Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định 13/2020/NĐ-CP ; trường hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Quy định về khoảng cách an toàn trong chăn nuôi trang trại.Cụ thể tại khoản 2, 3, 4, 5 Điều 5 Thông tư 23/2019/TT-BNNPTNT, khoảng cách an toàn trong chăn nuôi trang trại được quy định như sau:
- Khoảng cách từ chăn nuôi trang trại quy mô nhỏ đến khu tập trung xử lý chất thải sinh hoạt, công nghiệp, khu dân cư tối thiểu là 100 mét; trường học, bệnh viện, chợ, nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng dân cư tối thiểu là 150 mét.
- Khoảng cách từ chăn nuôi trang trại quy mô vừa đến khu tập trung xử lý chất thải sinh hoạt, công nghiệp, khu dân cư tối thiểu là 200 mét; trường học, bệnh viện, chợ tối thiểu là 300 mét.
- Khoảng cách từ chăn nuôi trang trại quy mô lớn đến khu tập trung xử lý chất thải sinh hoạt, công nghiệp, khu dân cư tối thiểu là 400 mét; trường học, bệnh viện, chợ, nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng dân cư tối thiểu là 500 mét.
- Khoảng cách giữa 02 chăn nuôi trang trại của 02 chủ thể khác nhau tối thiểu là 50 mét.
Theo đó, chăn nuôi lợn theo trang trại quy mô lớn cần đáp ứng các điều kiện nhất định như vị trí xây dựng trang trại phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, vùng, chiến lược phát triển chăn nuôi; có đủ nguồn nước bảo đảm chất lượng cho hoạt động chăn nuôi và xử lý chất thải chăn nuôi; có chuồng trại, trang thiết bị chăn nuôi phù hợp với từng loại vật nuôi,… Ngoài ra còn có các nghĩa vụ: thực hiện kê khai hoạt động chăn nuôi, thực hiện các biện pháp an toàn sinh học, vệ sinh môi trường, xử lý chất thải chăn nuôi, bảo đảm đối xử nhân đạo với vật nuôi.Và quan trọng nhất là phải được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi. Như vậy, chăn nuôi trang trại là một loại quy mô chăn nuôi, trong đó có chăn nuôi trang trại quy mô lớn. Khi chăn nuôi trang trại quy mô lớn nói riêng, và chăn nuôi trang trại nói chung sẽ phải đáp ứng những điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật. Cần làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện chăn nuôi đối với chăn nuôi trang trại quy mô lớn để được cấp Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật.
Khảo sát thực tiễn tại Phổ Yên
Trước đó, ngày 24/5/2023, Tạp chí điện tử Kinh doanh và Phát triển đã đăng tải bài viết “Công tác quản lý môi trường trong hoạt động đầu tư kinh doanh: Khảo sát thực tiễn tại Phổ Yên” về trang trại nuôi lợn Tuấn Bình được xây dựng và hoạt động nhiều năm, gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh thực trạng xả thải trực tiếp ra môi trường khiến cho nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng, trang trại của ông Nguyễn Văn Tuấn (Tuấn Bình) tại xóm Tân Ấp, xã Phúc Thuận, TP. Phổ Yên (tỉnh Thái Nguyên) còn xây dựng trên đất nông nghiệp khi chưa được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền.
![]() |
Điều đặc biệt, ngày 28/6/2011, trong biên bản đoàn công tác Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (Công an tỉnh Thái Nguyên) đã kiểm tra về việc chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường tại hộ gia đình ông Nguyễn Văn Tuấn, nêu rõ: Cơ sở chăn nuôi lợn tập trung theo loại hình quy mô gia đình đăng ký 12 lợn sinh sản và 60 lợn thịt. Sử dụng nước giếng khoan phục vụ vệ sinh chuồng trại. Tại thời điểm kiểm tra không có giấy tờ về công tác bảo vệ môi trường. Diện tích chuồng trại tại thời điểm kiểm tra là 550m2. Có ao lắng diện tích 60m2 chưa được gia cố bê tông thành và đáy bể, nước thải tự chảy ra ao lắng và từ đây nước thải tự ngấm vào đất thẩm thấu chất thải vào môi trường đất, nguồn nước ngầm trong khu vực. Tại thời điểm năm 2011, khi được kiểm tra về hồ sơ công tác bảo vệ môi trường thì Cơ sở chăn nuôi gia đình ông Tuấn chưa có bản cam kết Bảo vệ môi trường được cơ quan chức năng có thẩm quyền xác nhận theo quy định của pháp luật. Hồ sơ về công tác thú y, cơ sở chăn nuôi chưa có giấy chứng nhận điều kiện vệ sinh thú ý. Trong Biên bản đoàn kiểm tra yêu cầu cơ sở hộ gia đình ông Nguyễn Văn Tuấn phải khẩn trương thực hiện ngay: Một là lập đề án bảo vệ môi trường đơn giản trình cơ quan có thẩm quyền xác nhận theo quy định của pháp luật. Hai là làm thủ tục đề xuất cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất theo quy định. Ba là hoàn tất biện pháp, thủ tục giấy tờ về công tác thú y để được cấp giấy chứng nhận điều kiện vệ sinh thú y. Bốn là có biện pháp bê tông hoá ao lắng, nước thải giảm thiểu nước thẩm thấu nước thải gây ô nhiễm nguồn đất, nguồn nước ngầm ở khu vực. Tại biên bản làm việc ông Nguyễn Văn Tuấn đã nhất trí với nội dung và cơ sở sẽ nhanh chóng thực hiện các yêu cầu của đoàn công tác.
![]() |
Sau 12 năm Đoàn kiểm tra Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (Công an tỉnh Thái Nguyên) làm việc với hộ gia đình ông Tuấn, tuy nhiên, thay vì thực hiện theo yêu cầu của biên bản, chủ trang trại tiếp tục mở rộng diện tích chuồng trại lên rất nhiều lần, khoảng gần 2000m2 sử dụng để chăn nuôi lợn nái ngoại và lợn thịt. Mặc dù trong đăng ký mà giấy chứng nhận của UBND huyện Phổ Yên cấp ngày 4/2/2013 cho trang trại ông Nguyễn Văn Tuấn lĩnh vực sản xuất trang trại chăn nuôi lợn nái ngoại. Nhưng thực tế thì ngoài chăn nuôi lợn nái ngoại, hộ gia đình ông Tuấn chăn nuôi số lượng lớn lợn thịt. Theo ông Nguyễn Văn Tuấn trao đổi với phóng viên Kinh doanh và Phát triển ngày 23/5/2023 là 800 con lợn thịt.
Kinh doanh trang trại trên đất nông nghiệp, xây dựng kiên cố mở rộng quy mô gần 2000m2
Qua nghiên cứu hồ sơ, cho thấy, ngày 20/06/2022, ông Tuấn gửi đơn đến UBND xã Phúc Thuận về việc xin xây nhà tạm trên đất nông nghiệp (hiện chưa được chấp thuận), theo đó, hộ gia đình ông Nguyễn Văn Tuấn xin xây dựng tại thửa đất số 673d, tờ bản đồ số 38, với diện tích đất thổ cư 100m2 còn lại là đất nông nghiệp. Diện tích 900m2 sử dụng để làm trang trại là đất nông nghiệp. Trong buổi trao đổi với phóng viên Kinh doanh và Phát triển về vấn đề xây dựng trang trại của hộ gia đình ông Tuấn tại xóm Tân Ấp, ông Nguyễn Anh Khôi – Phó Chủ tịch UBND xã Phúc Thuận cho biết: Phía chính quyền xã đã có Biên bản làm việc kiểm tra môi trường tại trang trại chăn nuôi của ông Nguyễn Văn Tuấn theo đơn đề nghị của tập thể nhân dân xóm Tân Ấp, về việc xả thải trong hoạt động kinh doanh chăn nuôi, gây ảnh hưởng đến môi trường và đời sống người dân xung quanh. Về cảm quan, xung quanh trang trại có mùi hôi do việc chăn nuôi xả ra. Vị trí nước thải chảy ra suối vẫn có màu nâu đen. Tuy nhiên, trong biên bản làm việc, UBND xã chưa có kết luận về việc kiểm tra hay chỉ ra những sai phạm của trang trại hộ gia đình ông Tuấn để sửa chữa, khắc phục.
![]() | ||
|
Điều đáng nói là, thời điểm hiện tại trang trại lợn này ngoài gây ô nhiễm môi trường còn xây dựng mở rộng quy mô trên đất nông nghiệp và chưa được chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chưa Đăng ký kế hoạch bảo vệ môi trường, chưa Đăng ký biến động về đất. Sau khi có trong tay “Giấy chứng nhận đạt chỉ tiêu kinh tế trang trại”, mặc dù chưa có Giấy xác nhận Kế hoạch Bảo vệ môi trường (Đề án bảo vệ môi trường), hộ ông Nguyễn Văn Tuấn đã và vẫn thực hiện chăn nuôi lợn trái quy định, sử dụng đất sai mục đích từ việc xây dựng chuồng trại trên đất nông nghiệp. Trong đó, các hạng mục chuồng nuôi, hệ thống bể chứa, nhà kho, nhà quản lý… đã được xây dựng hoàn thiện và đưa vào sử dụng.
![]() |
Theo ý kiến phản ảnh của người dân (xin được giấu tên), trang trại hộ gia đình ông Tuấn được xây dựng kiên cố, có đầy đủ các hạng mục nuôi nhốt và các công trình phụ trợ. Thời điểm này trong chuồng đang nuôi nhốt gần 1 000 con lợn. Trang trại xây trên đất nông nghiệp và đất soi bãi sông chưa thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Tổng diện tích trang trại xây dựng trên đất không chuyển đổi mục đích sử dụng khoảng gần 2000m2.
Sự thiếu sót trong công tác quản lý tại địa phương là rất rõ ràng, vì sau 12 năm khi đoàn kiểm tra Công an tỉnh Thái Nguyên làm việc, thì những vướng mắc, bất cập tại trang trại chăn nuôi của gia đình ông Tuấn vẫn tồn tại và sự vi phạm các quy định có quy mô còn lớn hơn. Cùng với đó, gần 12 năm trôi qua, đã không có thêm bất cứ đợt kiểm tra nào đối với hộ kinh doanh chăn nuôi này. Chỉ đến khi có đơn phản ánh của người dân xung quanh về việc gây ô nhiễm môi trường, UBND xã mới tiến hành làm việc. Tuy đã lập tổ công tác kiểm tra theo phản ảnh và gửi UBND TP. Phổ Yên, Phòng Tài nguyên và Môi trường TP. Phổ Yên ngày 24/5/2023 mới chỉ đề nghị kiểm tra việc xả thải của trang trại ông Tuấn, mà chưa đề cập vấn đề mở rộng quy mô kinh doanh chăn nuôi lên gần 1000 con lợn thịt, xây dựng trên đất nông nghiệp và tồn tại suốt nhiều năm lại không được cấp quản lý chính quyền địa phương phát hiện.
Với chức năng và tôn chỉ mục đích về các vấn đề kinh tế, đầu tư, kinh doanh, thương mại, Tạp chí Kinh doanh và Phát triển thông qua Chuyên đề này, từ việc khảo sát nghiên cứu thực tiễn về hoạt động đầu tư và kinh doanh trang trại tại xã Phúc Thuận, kính đề nghị các cơ quan chức năng có thẩm quyền TP Phổ Yên vào cuộc xem xét, làm rõ thực trạng nêu trên, xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân liên quan để xử lý vi phạm (nếu có), bảo đảm công tác quản lý đất đai và môi trường trong hoạt động kinh doanh đúng quy định pháp luật.
| Căn cứ khoản 1, 2 Điều 55 Luật Chăn nuôi 2018 về chăn nuôi trang trại: 1. Chăn nuôi trang trại phải đáp ứng các điều kiện sau đây: |




