Lời toà soạn: Trong những thập kỷ qua Quảng Ninh là vùng đất được quan tâm bởi có vị thế “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, được coi là địa phương có tiềm năng lớn nhất ở Việt Nam, đang thu hút sự chú ý toàn cầu.

Sức mạnh to lớn của Quảng Ninh là cơ sở hạ tầng giao thông, trong đó có đường cao tốc từ Hà Nội và Hải Phòng, các sân bay, bến cảng, ngoài ra còn có tài nguyên du lịch tốt, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng.

Tỉnh Quảng Ninh - với vị trí chiến lược giáp Trung Quốc, sở hữu Di sản Thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long, cùng nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú đang giữ vai trò là một “hạt nhân phát triển bền vững” của vùng Đông Bắc. Bên cạnh đó, bộ máy lãnh đạo năng động, quyết liệt và đổi mới đã góp phần đưa Quảng Ninh trở thành hình mẫu trong cải cách hành chính và thu hút đầu tư.

Những yếu tố quan trọng này tạo điều kiện thuận lợi để Quảng Ninh phát triển các ngành công nghiệp, chế biến sản phẩm theo hướng xuất khẩu, trở thành trung tâm logistics, trung tâm dịch vụ phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế cả vùng.

Về khía cạnh kinh tế, xã hội, Quảng Ninh là một trong những tỉnh đi đầu trong xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số ở cấp xã. 54 xã, phường, đặc khu mới đều vận hành hệ thống quản lý đất đai, hộ tịch, thuế, đầu tư công… qua phần mềm tập trung, kết nối Cổng Dịch vụ công quốc gia. 18 lớp tập huấn cho gần 2.000 lượt cán bộ đã được tổ chức trong tháng 5 và 6/2025, giúp cán bộ xã mới nắm vững quy trình, nhiệm vụ và quyền hạn theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi. Điều này cho thấy cải cách chính quyền 2 cấp không chỉ là chuyện “gộp xã, giảm biên chế”, mà thực sự đã tạo ra một cách thức quản trị địa phương hiện đại hơn, gần dân hơn và minh bạch hơn.

Tạp chí điện tử Kinh doanh và Phát triển xin trân trọng giới thiệu những ý kiến đầy tâm huyết của Tiến sĩ, Luật sư Phạm Hồng Điệp với vùng đất Quảng Ninh đầy tiềm năng này.

Bài 1: Phân tích điểm mạnh, điểm yếu phát triển công nghiệp Quảng Ninh

Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Quảng Ninh đã xác định công nghiệp là một trong những ngành kinh tế trụ cột, đóng vai trò then chốt trong chuyển dịch cơ cấu và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế địa phương. Với lợi thế vượt trội về vị trí địa lý, hạ tầng kết nối, tài nguyên thiên nhiên và môi trường đầu tư thuận lợi, Quảng Ninh đang từng bước chuyển mình từ một trung tâm công nghiệp khai khoáng sang phát triển công nghiệp xanh, công nghệ cao và công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế rõ nét, công nghiệp Quảng Ninh vẫn đang đối mặt với một số hạn chế và thách thức nhất định trong quá trình phát triển bền vững và hiện đại hóa. Phân tích dưới đây sẽ chỉ ra những điểm mạnh và điểm yếu chủ yếu trong phát triển công nghiệp của tỉnh, làm cơ sở đề xuất các giải pháp chiến lược trong thời gian tới.

Tỉnh Quảng Ninh sở hữu nhiều thế mạnh cần nắm bắt

Là cửa ngõ giao thương quốc tế phía Bắc của Việt Nam khi tiếp giáp với Trung Quốc qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái – là một trong những điểm kết nối quan trọng của hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh và gần các trung tâm kinh tế lớn như Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh, tạo thuận lợi cho liên kết vùng, phát triển công nghiệp phụ trợ và logistics.

Tỉnh Quảng Ninh đã xác định công nghiệp là một trong những ngành kinh tế trụ cột. (Ảnh minh họa)
Tỉnh Quảng Ninh đã xác định công nghiệp là một trong những ngành kinh tế trụ cột. (Ảnh minh họa)

Nằm trên trục phát triển trọng điểm của quốc gia và khu vực, Quảng Ninh có điều kiện thuận lợi để triển khai các chiến lược liên kết vùng, hội nhập quốc tế và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng bền vững Phù hợp định hướng phát triển “Một vành đai, hai hành lang” và các chiến lược vùng.

Quảng Ninh là cầu nối trực tiếp giữa thị trường ASEAN và vùng Tây Nam Trung Quốc, góp phần đưa tỉnh trở thành một trung tâm logistics, trung chuyển hàng hóa và dịch vụ công nghiệp của khu vực phía Bắc.

Quảng Ninh là một trong số ít địa phương trên cả nước có hệ thống hạ tầng giao thông phát triển toàn diện, đồng bộ giữa đường bộ, đường biển, đường sắt và hàng không, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển công nghiệp và logistics.

Cụ thể: Đường bộ: Hệ thống cao tốc hiện đại gồm các tuyến: Hạ Long – Vân Đồn – Móng Cái, Hạ Long – Hải Phòng – Hà Nội, rút ngắn thời gian di chuyển từ Quảng Ninh đến các trung tâm kinh tế lớn phía Bắc.

Đường biển: Cảng biển nước sâu Cái Lân – cảng loại I, có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải lớn, phục vụ trực tiếp xuất nhập khẩu công nghiệp. Cụm cảng Hải Hà – Vạn Gia (gồm cảng tổng hợp Vạn Ninh đang xây dựng) – Móng Cái đang được đầu tư mở rộng, nâng cao năng lực logistics khu vực biên giới.

Đường hàng không: Sân bay quốc tế Vân Đồn hiện đại, hoạt động thương mại và hàng hóa, kết nối Quảng Ninh với các trung tâm kinh tế, tài chính lớn trong nước và khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Góp phần thu hút đầu tư công nghệ cao, công nghiệp có yêu cầu logistics cao.

Đường sắt: Tuyến đường sắt Hạ Long – Cái Lân – Yên Viên đang được quy hoạch phát triển, phục vụ vận chuyển hàng hóa công nghiệp. Hướng kết nối đường sắt với Trung Quốc qua Móng Cái sẽ mở rộng không gian giao thương quốc tế. Cụ thể, dự án tuyến đường sắt Hải Phòng - Hạ Long - Móng Cái: Dài khoảng 187km, khổ đường 1.435mm, điện khí hóa, vận tải hành khách và hàng hóa; tốc độ tàu khách 160km/giờ, tàu hàng khoảng 120km/giờ. Tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 7 tỷ USD; đầu tư sau năm 2030.

Hạ tầng khu công nghiệp – đô thị: Các khu công nghiệp lớn (KCN Hải Hà, KCN Đông Mai, KCN Việt Hưng...) được quy hoạch bài bản, hạ tầng đồng bộ về điện, nước, viễn thông, xử lý môi trường. Hệ thống logistics, kho vận, trung tâm dịch vụ logistics đang được đầu tư để hình thành trung tâm công nghiệp – logistics vùng Đông Bắc.

Sân bay Vân Đồn là cảng hàng không tư nhân đầu tiên tại Việt Nam.
Sân bay Vân Đồn là cảng hàng không tư nhân đầu tiên tại Việt Nam.

Quảng Ninh là địa phương đi đầu cả nước trong cải cách thể chế, đổi mới tư duy quản trị và xây dựng chính quyền phục vụ, qua đó tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, minh bạch và hiệu quả cho các doanh nghiệp công nghiệp. Trong đó, Mô hình chính quyền đồng hành – phục vụ doanh nghiệp: Tỉnh duy trì hiệu quả các mô hình: “Cà phê doanh nhân”, “Tổ công tác xúc tiến và tháo gỡ khó khăn cho nhà đầu tư”, “Trung tâm phục vụ hành chính công” với tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng hạn đạt trên 98%. Chủ trương của tỉnh là “một cửa, tại chỗ, minh bạch” giúp rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, thủ tục xây dựng, đất đai, môi trường, PCCC, hải quan...

Chuyển đổi số trong cải cách hành chính: Tỉnh triển khai đồng bộ các nền tảng số trong giải quyết thủ tục hành chính, quản lý khu công nghiệp, cấp phép đầu tư qua môi trường mạng. Doanh nghiệp có thể theo dõi tiến độ, kết quả xử lý hồ sơ trực tuyến, đảm bảo tính công khai, minh bạch.

Cơ chế linh hoạt, ưu tiên cho nhà đầu tư chiến lược: Quảng Ninh xây dựng cơ chế đặc thù, ban hành Bộ tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư, Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tư công nghiệp, góp phần thu hút các tập đoàn lớn như Foxconn, Amata, Texhong, Jinko Solar...Thường xuyên đối thoại và giải quyết nhanh chóng các kiến nghị của nhà đầu tư trong quá trình triển khai dự án.

Tỉnh Quảng Ninh là địa phương có tiềm năng tài nguyên thiên nhiên đa dạng bậc nhất cả nước, đặc biệt là về khoáng sản, biển và rừng. Đây là nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm như khai thác – chế biến than, năng lượng, vật liệu xây dựng, công nghiệp ven biển...

Khoáng sản than – lợi thế độc tôn: Quảng Ninh được mệnh danh là "thủ phủ than" của cả nước với trữ lượng lớn, tập trung tại Hạ Long, Cẩm Phả, Đông Triều, Uông Bí... Than đá không chỉ phục vụ sản xuất điện mà còn là đầu vào quan trọng cho các ngành công nghiệp chế biến sâu, luyện kim, hóa chất. Việc tái cơ cấu ngành than hướng tới khai thác hiệu quả, an toàn và thân thiện môi trường là chiến lược quan trọng trong chuyển dịch công nghiệp của tỉnh.

Tài nguyên biển và ven biển: Quảng Ninh có bờ biển dài hơn 250km, trên 2.000 hòn đảo và vùng biển rộng lớn, thuận lợi phát triển các ngành công nghiệp chế biến thủy sản, đóng tàu, logistics cảng biển và công nghiệp ven biển. Vùng biển Hải Hà, Móng Cái, Vân Đồn... đang được quy hoạch phát triển thành trung tâm công nghiệp – dịch vụ cảng và đô thị ven biển.

Tài nguyên đất và nguyên liệu cho vật liệu xây dựng: Quảng Ninh có trữ lượng lớn đá vôi, đá xây dựng, cao lanh, đất sét, cát thủy tinh... là nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp xi măng, gốm sứ, vật liệu xây dựng mới. Một số dự án đầu tư lớn trong lĩnh vực sản xuất gạch, kính, xi măng, vật liệu không nung đã và đang hoạt động hiệu quả tại Đông Triều, Uông Bí, Quảng Yên...

Tiềm năng năng lượng tái tạo: Ngoài than, tỉnh có tiềm năng phát triển năng lượng gió ven biển, điện mặt trời và các hình thức điện sinh khối từ nguồn phụ phẩm công – nông nghiệp. Đây là tiền đề để Quảng Ninh phát triển các khu công nghiệp sử dụng năng lượng sạch, giảm phát thải carbon.

Tỉnh Quảng Ninh có lợi thế nổi bật về quỹ đất công nghiệp quy hoạch bài bản, diện tích lớn, vị trí chiến lược, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các khu công nghiệp tập trung, thu hút các nhà đầu tư quy mô lớn và định hướng lâu dài. Các điểm nhấn chính bao gồm: Diện tích đất khu công nghiệp hiện có và tiềm năng mở rộng lớn. Hạ tầng khu công nghiệp đồng bộ, sẵn sàng mặt bằng: Các khu công nghiệp như KCN Đông Mai (Quảng Yên), KCN Sông Khoai (Quảng Yên), KCN Hải Yên (Móng Cái), KCN Texhong Hải Hà, KCN Bắc Tiền Phong (thuộc DEEP C) đã hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật (giao thông, điện, nước, xử lý môi trường). Nhà đầu tư có thể tiếp cận quỹ đất sạch, pháp lý rõ ràng, hạ tầng kết nối nhanh chóng, rút ngắn thời gian triển khai dự án.

Vị trí quỹ đất gần cảng biển, sân bay, cửa khẩu: Các khu công nghiệp đều gắn với hệ thống giao thông thuận lợi: Gần đường cao tốc, cảng biển (Cái Lân, Hải Hà), sân bay Vân Đồn và cửa khẩu Móng Cái, thuận tiện cho xuất nhập khẩu, logistics và sản xuất quy mô lớn.

Định hướng phát triển khu công nghiệp chuyên đề, sinh thái: Quảng Ninh chủ trương phát triển các khu công nghiệp theo mô hình hiện đại, có khả năng tiếp nhận các ngành công nghệ cao, công nghiệp xanh và công nghiệp phụ trợ. Một số khu như KCN Bắc Tiền Phong, Song Khoai, Hải Hà giai đoạn 2 đã được định hướng theo mô hình khu công nghiệp sinh thái, đa chức năng, tích hợp đô thị – dịch vụ.

Nhận thức rõ những thách thức về môi trường, biến đổi khí hậu và yêu cầu phát triển bền vững, tỉnh Quảng Ninh đã và đang thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc chuyển dịch mô hình tăng trưởng công nghiệp từ "nâu" sang "xanh". Đây là bước đi chiến lược để bảo đảm phát triển công nghiệp lâu dài, hiệu quả, phù hợp với xu thế toàn cầu.

Chủ trương đóng cửa mỏ than lộ thiên, hạn chế công nghiệp ô nhiễm: Quảng Ninh là địa phương đầu tiên của cả nước xây dựng lộ trình kết thúc khai thác than lộ thiên ở một số khu vực đô thị, tiến tới phục hồi môi trường và tái định hướng sử dụng đất công nghiệp hiệu quả. Chủ động không thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp tiêu tốn nhiều tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường như luyện kim, hóa chất độc hại, nhiệt điện than mới...

Ưu tiên thu hút công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch: Tỉnh tập trung kêu gọi các nhà đầu tư lớn trong các lĩnh vực: Sản xuất linh kiện điện tử, công nghiệp phụ trợ, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, công nghệ sinh học... Các khu công nghiệp mới như KCN Song Khoai, KCN Bắc Tiền Phong, KCN Hải Hà giai đoạn 2 được quy hoạch theo hướng khu công nghiệp sinh thái, phát thải thấp.

Quảng Ninh và bài toán đối mặt với điểm yếu và hạn chế

Bên cạnh nhiều lợi thế vượt trội, quá trình phát triển công nghiệp của tỉnh Quảng Ninh cũng đang đối mặt với một số điểm yếu và hạn chế mang tính căn cơ, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh dài hạn và hiệu quả sử dụng tài nguyên.

Ngành công nghiệp khai thác than vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong GRDP ngành công nghiệp, gây áp lực về môi trường và phụ thuộc vào tài nguyên hữu hạn.

Thiếu liên kết chuỗi giá trị và công nghiệp phụ trợ. Các ngành công nghiệp tại Quảng Ninh còn rời rạc, thiếu liên kết chiều sâu giữa các doanh nghiệp nội tỉnh cũng như giữa doanh nghiệp trong nước và FDI. Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, dẫn đến việc phụ thuộc nguyên vật liệu, linh kiện nhập khẩu, làm giảm sức cạnh tranh.

Hạn chế về nhân lực công nghiệp chất lượng cao. Nguồn lao động kỹ thuật, chuyên gia trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, tự động hóa, năng lượng mới còn thiếu và yếu. Các trung tâm đào tạo nghề, đại học trong tỉnh chưa đáp ứng kịp tốc độ và yêu cầu chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp.

Một số khu công nghiệp triển khai chậm, hạ tầng chưa đồng bộ. Một số KCN (như Hải Hà giai đoạn mở rộng, KCN cảng biển...) gặp vướng mắc về giải phóng mặt bằng, kết nối hạ tầng cấp điện, nước, giao thông. Việc chưa hoàn thiện đồng bộ hạ tầng dẫn đến khó thu hút các nhà đầu tư quy mô lớn, yêu cầu cao. Chất lượng môi trường đầu tư chưa đồng đều giữa các địa bàn Dù môi trường đầu tư toàn tỉnh được đánh giá cao, nhưng tại một số huyện xa trung tâm, thủ tục hành chính, năng lực cán bộ, quỹ đất sạch vẫn còn là rào cản. Chưa hình thành đồng bộ các dịch vụ hậu cần, logistics, khu nhà ở công nhân tại nhiều KCN.

Khả năng thích ứng mô hình công nghiệp xanh còn hạn chế. Việc triển khai mô hình khu công nghiệp sinh thái, công nghiệp phát thải thấp vẫn ở giai đoạn thí điểm, thiếu cơ chế tài chính hỗ trợ và hướng dẫn kỹ thuật cụ thể.

Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trong Cụm công nghiệp chưa có đủ năng lực để đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện môi trường.

Kiến nghị các giải pháp giúp Quảng Ninh tháo gỡ khó khăn

Trên cơ sở phân tích hiện trạng, điểm yếu và bối cảnh mới, tỉnh Quảng Ninh cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp sau để tháo gỡ điểm nghẽn và nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư công nghiệp:

Hoàn thiện thể chế và quy hoạch. Tiến hành rà soát, điều chỉnh, tích hợp quy hoạch các KCN/CCN, KKT vào quy hoạch tỉnh và quy hoạch vùng đồng bộ với Quy hoạch quốc gia.

Thiết lập cơ chế “một cửa liên thông số hóa” cho nhà đầu tư FDI, DDI tiếp cận nhanh thông tin quy hoạch – đất đai – môi trường – xây dựng. Phân quyền mạnh cho cấp xã, phường trong xử lý thủ tục đầu tư, tránh dồn lên tỉnh, rút ngắn thời gian cấp phép.

Tăng tốc phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng khu công nghiệp. Tạo quỹ đất sạch sẵn sàng thông qua hỗ trợ GPMB có chính sách bồi thường, tái định cư linh hoạt, công khai. Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, bàn giao đất sạch tại các KCN, CCN trọng điểm như Hải Hà, Bắc Tiền Phong, Đông Mai (mở rộng), Song Khoai.

Ưu tiên đầu tư các hệ thống hạ tầng kết nối KCN với cao tốc, cảng biển, sân bay và logistics hỗ trợ sản xuất.

Xây dựng đồng bộ hệ thống xử lý nước thải, chất thải, điện ổn định, viễn thông tốc độ cao, sẵn sàng tiếp nhận các ngành công nghệ cao.

Tăng cường cải cách hành chính, hỗ trợ nhà đầu tư. Duy trì và mở rộng mô hình “Tổ công tác hỗ trợ nhà đầu tư”, “Cà phê doanh nhân”, “Trung tâm Hành chính công – một cửa liên thông”. Rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp phép, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đấu nối hạ tầng, thẩm định môi trường, PCCC...

Áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, số hóa hồ sơ đầu tư, theo dõi tiến độ xử lý minh bạch. Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp chất lượng cao. Hợp tác giữa tỉnh và các tập đoàn, doanh nghiệp FDI trong đào tạo nghề theo đơn đặt hàng.

Xây dựng “Tam giác đào tạo nghề chất lượng cao vùng Đông Bắc” (Quảng Ninh – Hải Phòng – Hải Dương), hướng tới chuẩn kỹ năng ASEAN.

Tăng cường đầu tư cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đổi mới chương trình sát với yêu cầu sản xuất công nghiệp hiện đại.

Liên kết với các trường đại học, cao đẳng nghề mở ngành đào tạo theo đơn đặt hàng doanh nghiệp (dual training).

Đầu tư trung tâm đào tạo kỹ thuật vùng (giống mô hình Samsung – Bắc Ninh)./.