Buổi tọa đàm do Hội Kiều học Việt Nam, Hội đồng Gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền và Viện Nghiên cứu Danh nhân phối hợp tổ chức ngày 26/7, tại Hà Nội.
Trải qua hơn 200 năm, vẻ đẹp và sức sống của tiếng Việt trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ngày càng tỏa rạng hơn, sâu lắng hơn. Nét đẹp của ngôn ngữ Việt, của văn hóa Việt thể hiện trong Truyện Kiều cùng những tư duy độc lập sáng tạo và phương pháp luận khoa học diễn đạt ngôn ngữ thuần Việt trong lao động sáng tạo của Nguyễn Du đã chứng tỏ, tiếng Việt là một ngôn ngữ trau chuốt nhưng giản dị, đài các nhưng gần gũi, sang trọng mà hồn nhiên, dân dã dễ hiểu mà tao nhã văn chương.
Việc phiên âm Truyện Kiều - truyện thơ Nôm sang Quốc ngữ đòi hỏi tuân thủ các quy tắc chính tả để giúp bạn đọc tiếp cận và hiểu rõ hơn nội dung của một truyện thơ dài. Dù đã có lịch sử 150 năm, kể từ khi bản Truyện Kiều - Quốc ngữ đầu tiên do nhà ngôn ngữ học Trương Vĩnh Ký phiên âm và xuất bản năm 1875 đến nay thì việc các bản Truyện Kiều - Quốc ngữ ngày nay thể hiện các quy tắc chính tả và cách dùng dấu câu cũng như việc phân đoạn Truyện Kiều đã có nhiều thay đổi, chưa được nhất quán và có nhiều vấn đề cần phải bàn thảo...
Năm 1911, bản Kim Vân Kiều truyện của Trương Vĩnh Ký vẫn thể hiện cặp thơ lục bát là một câu, một cặp, một chỉnh thể không tách rời. Do đó cuối mỗi câu lục, câu bát đều có dấu câu như dấu phẩy, dấu chấm, chấm than, chấm hỏi. Đầu dòng câu bát không viết hoa. Bản này còn phân đoạn thành nhiều đoạn nhỏ, đặt tên cho từng phân đoạn và đưa vào thẳng mạch nội dung của Truyện Kiều.
Năm 1913, bản Kim Vân Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh đã được viết hoa đầu dòng câu bát, đánh dấu phẩy cuối câu lục và dấu chấm cuối câu bát. Từ bản của Nguyễn Văn Vĩnh đến nay thì các bản Truyện Kiều luôn được viết hoa ở đầu dòng câu bát.
Năm 1942 - 1943, Nhà in Alexandre de Rhodes đã thực hiện việc bỏ dấu phẩy cuối câu lục và dấu chấm cuối câu bát khi tái bản cuốn Kim Vân Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh in năm 1913...
Chính vì vậy, nhà nghiên cứu Trần Đình Tuấn - Phó chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam cho rằng, không phải ngẫu nhiên mà có cuộc bàn bạc để tìm ra một văn bản Truyện Kiều quốc ngữ đúng nhất với bản Hán Nôm của tác giả, tuân thủ các quy tắc chính tả để giúp bạn đọc tiếp cận và hiểu rõ hơn nội dung của một truyện thơ dài.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Tuấn nhận định, việc thể hiện văn bản quốc ngữ Truyện Kiều về chính tả và việc phân đoạn do các nhà in, biên tập viên của nhà xuất bản hay tác giả (nhóm tác giả) thực hiện qua từng thời kỳ đã có sự khác nhau về vấn đề văn phạm - chính tả, về phân đoạn.
Nói về việc chia đoạn Truyện Kiều, nhà nghiên cứu Trần Đình Tuấn cho biết, có hai quan điểm cơ bản: Truyện Kiều là một nguyên khối, không cần chia đoạn. Việc chia đoạn làm giảm giá trị tiếp nhận văn học và làm vụn Truyện Kiều; và quan điểm việc chia đoạn là cần thiết vì Truyện Kiều vốn bản thân có yếu tố truyện nên việc phân chia đoạn giúp độc giả nắm bắt nội dung.
GS.TS Trần Đình Sử cho biết, ông không phủ nhận cả hai giả thuyết đang được công bố. Tuy nhiên, ông nhìn nhận tác phẩm như một trường hợp nghiên cứu đặc biệt. Bởi lẽ, cuốn sách không chỉ vẽ đôi ba tranh minh họa như thường thấy mà vẽ liên hoàn tới 146 bức, theo sát nội dung 144 đoạn trong Truyện Kiều.
Việc đem Truyện Kiều nguyên khối tách ra 144 đoạn và đoạn nào cũng tạo thành “một câu chuyện nhỏ hoàn chỉnh” cho thấy sự đóng góp khác biệt của Kim Vân Kiều hội bản. Tác phẩm đã nhấn mạnh sự kỳ tài trong nghệ thuật sáng tác của Nguyễn Du, nhận ra sự nhuần nhuyễn trong thủ pháp nghệ thuật của đại thi hào dân tộc khi khiến người đọc tìm thấy trong câu chuyện lớn là chuỗi chuyện nhỏ. Đây là những nét đặc sắc mà nhiều nhà nghiên cứu hiện nay chưa để ý.
Thực tế, việc phân đoạn liên tục diễn ra từ năm 1911 như bản Kim Vân Kiều truyện do Trương Vĩnh Ký phiên. Mặc dù, Trương Vĩnh Ký năm 1875 đã không phân đoạn, nhưng sau này khi tái bản, nhà in đã phân đoạn như trình bày trên...
Tại tọa đàm, các nhà khoa học, chuyên gia ngôn ngữ đã cho ý kiến cá nhân về việc nên chọn trình bày Truyện Kiều sao cho đúng, cho sát với chữ của Nguyễn Du nhất, đồng thời tuân thủ quy tắc chính tả của tiếng Việt./.