I. NHỮNG THÁCH THỨC ĐA CHIỀU, DAI DẲNG

Những khó khăn không mang tính cục bộ mà có tính hệ thống, liên kết chặt chẽ và làm trầm trọng lẫn nhau. Bài toán ở Điện Biên không thể giải bằng những giải pháp rời rạc. Cần một chiến lược tổng thể, kết hợp giữa đầu tư hạ tầng – nâng cao dịch vụ công – đổi mới sinh kế – quản trị hiện đại – gìn giữ bản sắc, để người dân thực sự thoát nghèo một cách bền vững và chủ động làm chủ tương lai.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

1. Địa hình hiểm trở, giao thông cách trở – rào cản “cứng” của phát triển bền vững tại Điện Biên

Tỉnh Điện Biên nằm ở vùng cực Tây Bắc của Tổ quốc, với địa hình chủ yếu là đồi núi cao và bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi, khe suối và thung lũng hẹp. Trên 90% diện tích tự nhiên của tỉnh là đồi núi, trong đó nhiều khu vực có độ dốc lớn, nền đất yếu, dễ sạt lở, đặc biệt vào mùa mưa lũ. Đặc điểm địa hình này tạo ra một rào cản tự nhiên dai dẳng và tốn kém đối với mọi nỗ lực phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội.

Hầu hết các bản làng tại Điện Biên, đặc biệt ở các khu vực biên giới đều phân bố rải rác, xa trung tâm hành chính xã từ 5 đến 30 km, đường đi chủ yếu là đường đất, nhiều đoạn dốc cao, nhỏ hẹp và không có hệ thống rãnh thoát nước. Vào mùa mưa, hàng trăm điểm giao thông thường xuyên bị sạt lở, lũ quét, đất đá tràn mặt đường, gây chia cắt, cô lập trong nhiều ngày. Theo thống kê của ngành giao thông địa phương, trung bình mỗi năm có hàng trăm điểm sạt lở đất nghiêm trọng trên các tuyến đường liên xã, liên bản.

Việc thiếu kết nối giao thông ổn định và bền vững không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến việc đi lại, mà còn làm tăng chi phí vận chuyển hàng hóa, dịch vụ, từ đó khiến giá cả sinh hoạt vùng cao luôn ở mức cao hơn 1,5–2 lần so với vùng thấp. Người dân gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các dịch vụ công cơ bản như y tế, giáo dục, tư pháp – hộ tịch; hàng hóa nông sản làm ra khó vận chuyển ra thị trường, dẫn tới đứt gãy chuỗi giá trị nông nghiệp tại chỗ, kéo lùi thu nhập và gia tăng nguy cơ tái nghèo.

Ngoài ra, địa hình chia cắt còn gây ra những hệ lụy trong công tác quản trị hành chính và triển khai chính sách ở cấp cơ sở. Cán bộ xã, thôn phải đi bộ hoặc di chuyển bằng phương tiện thô sơ trong nhiều giờ mới đến được các điểm dân cư rải rác. Điều này ảnh hưởng đến tần suất và hiệu quả tiếp cận dịch vụ công, dẫn đến tình trạng “trống vắng nhà nước” trong mắt người dân ở vùng sâu – một khoảng trống dễ bị khai thác bởi các luồng tư tưởng tiêu cực, phi chính thống.

Hơn nữa, khó khăn về giao thông còn là thách thức lớn đối với việc triển khai các mô hình phát triển mới, như du lịch cộng đồng, kinh tế rừng, chuyển đổi số hay kết nối nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ. Việc đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông tại Điện Biên không chỉ cần nguồn lực lớn mà còn đòi hỏi thiết kế thích ứng với địa hình và khí hậu cực đoan, điều chỉnh tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với vùng núi cao, đồng thời đảm bảo yếu tố bảo vệ môi trường và giảm thiểu rủi ro thiên tai.

2. Tỷ lệ nghèo đa chiều cao - – Tồn tại cốt lõi làm kéo lùi năng lực phát triển con người

 Tình trạng nghèo đa chiều tại Điện Biên là một trong những thách thức cốt lõi, có tính hệ thống và dai dẳng, trực tiếp làm suy yếu khả năng phát triển nội sinh của địa phương. Theo số liệu thống kê gần đây, Điện Biên thường xuyên nằm trong nhóm các tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao nhất cả nước, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số – chiếm hơn 80% dân số toàn tỉnh – là đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Khác với khái niệm nghèo đơn chiều dựa trên mức thu nhập, nghèo đa chiều phản ánh sự thiếu hụt đồng thời ở nhiều phương diện thiết yếu như dinh dưỡng, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường và khả năng tiếp cận thông tin. Nhiều hộ gia đình tại Điện Biên không chỉ thiếu thu nhập mà còn sống trong điều kiện hạ tầng lạc hậu, thiếu thốn dịch vụ cơ bản, dẫn đến vòng luẩn quẩn tái nghèo qua nhiều thế hệ.

Thực tế cho thấy, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể thấp còi tại một số vùng sâu của tỉnh vẫn dao động ở mức trên 25%, phản ánh mức độ thiếu an toàn thực phẩm và chăm sóc y tế ban đầu. Việc thiếu tiếp cận với giáo dục chất lượng, môi trường học tập phù hợp, cùng với khoảng cách địa lý và điều kiện sống khó khăn cũng làm giảm khả năng hoàn thành phổ cập giáo dục, đặc biệt ở lứa tuổi trung học. Ngoài ra, thiếu nước sạch và điều kiện vệ sinh không đảm bảo là nguyên nhân phổ biến dẫn đến các bệnh tật, giảm chất lượng sống và tăng gánh nặng y tế đối với cộng đồng nghèo.

Nghèo đa chiều không chỉ là kết quả của thiếu hụt tài nguyên vật chất mà còn bắt nguồn từ hạn chế về cơ hội phát triển, quyền tiếp cận các dịch vụ công thiết yếu và năng lực tự thân. Đối với Điện Biên, nơi điều kiện địa lý khắc nghiệt, hạ tầng còn yếu, dân cư phân tán và phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, việc giảm nghèo cần được tiếp cận theo hướng tổng hợp, không chỉ dựa vào trợ cấp mà cần tạo sinh kế bền vững, cải thiện dịch vụ cơ bản và nâng cao năng lực cá nhân – cộng đồng. Đây là tiền đề để người dân thực sự “thoát nghèo về chất” và trở thành chủ thể trong quá trình phát triển bền vững của địa phương.

3. Thiếu đất sản xuất và sinh kế bền vững – Thách thức kéo dài làm trì hoãn quá trình thoát nghèo thực chất

Một trong những rào cản lớn đối với việc cải thiện chất lượng sống và thoát nghèo bền vững tại Điện Biên chính là sự thiếu hụt đất sản xuất phù hợp và sự yếu kém trong cấu trúc sinh kế. Với địa hình chủ yếu là đồi núi dốc, đất canh tác tại nhiều khu vực trong tỉnh thường ở trạng thái bạc màu, nghèo dinh dưỡng, dễ xói mòn và gần như không có khả năng cải tạo nếu thiếu đầu tư lớn về thủy lợi, phân bón hữu cơ và kỹ thuật bảo vệ đất. Phần lớn nông hộ, đặc biệt ở các vùng dân tộc thiểu số, vẫn canh tác theo phương thức truyền thống như làm nương rẫy, trồng ngô, lúa một vụ với năng suất thấp, phụ thuộc nặng nề vào thời tiết và thiếu tính dự báo rủi ro.

Điều đáng lo ngại là mô hình sinh kế nông nghiệp hiện nay tại nhiều bản làng chưa có sự đổi mới thực chất, chưa gắn với thị trường, càng chưa đạt đến mức kết nối chuỗi giá trị. Người dân ít có điều kiện tiếp cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi; chưa được đào tạo kỹ năng quản lý nông hộ; và gần như không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng ưu đãi cho phát triển sản xuất. Hệ thống tín dụng chính thức thường đòi hỏi tài sản thế chấp, hồ sơ pháp lý đầy đủ – những điều mà người dân vùng cao thường không có, nhất là trong điều kiện đất chưa có sổ đỏ, hoặc còn đang tranh chấp, thiếu quy hoạch cụ thể.

Hệ quả tất yếu là thu nhập từ nông nghiệp thấp, không đủ trang trải chi phí đầu tư tái sản xuất và sinh hoạt cơ bản, khiến người dân không thể tích lũy, luôn ở trong trạng thái rủi ro kinh tế cao, dễ bị tái nghèo khi gặp thiên tai, dịch bệnh hoặc biến động giá cả. Mặt khác, sự đơn điệu trong mô hình sản xuất cũng khiến lực lượng lao động trẻ thiếu động lực ở lại nông thôn, thúc đẩy di cư tự phát, tạo áp lực lên đô thị và làm suy yếu nền tảng cộng đồng truyền thống.

Bài toán sinh kế bền vững tại Điện Biên không thể chỉ giải quyết bằng hỗ trợ một lần hay chính sách giảm nghèo hành chính, mà cần có chiến lược đầu tư trung hạn và dài hạn theo hướng: (i) phát triển mô hình nông nghiệp đặc sản vùng cao phù hợp sinh thái (cây dược liệu, cây ăn quả ôn đới, chăn nuôi bản địa); (ii) gắn kết sản xuất với thị trường tiêu thụ ổn định thông qua hợp tác xã, doanh nghiệp đầu mối; (iii) áp dụng tín dụng vi mô, quỹ tín dụng cộng đồng không thế chấp; và (iv) đào tạo nghề lồng ghép văn hóa bản địa, nâng cao năng lực tổ chức sản xuất cho người dân. Chỉ khi sinh kế được bảo đảm bền vững thì các nỗ lực đầu tư vào hạ tầng – giáo dục – y tế mới phát huy hiệu quả dài hạn, tạo động lực phát triển nội sinh vững chắc cho Điện Biên.

 4. Thiếu dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng – Gánh nặng kép kéo lùi năng lực phát triển con người vùng cao

Trong tiến trình phát triển bền vững, hệ thống y tế và giáo dục đóng vai trò cốt lõi trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện điều kiện sống lâu dài. Tuy nhiên, tại tỉnh Điện Biên, những dịch vụ cơ bản này lại đang là những mắt xích yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người dân, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa và trong cộng đồng dân tộc thiểu số. Hệ thống y tế cơ sở tại nhiều xã vẫn trong tình trạng thiếu bác sĩ, thiếu thiết bị và vật tư y tế, không đủ năng lực thực hiện khám chữa bệnh thông thường. Nhiều trạm y tế xã chỉ có từ 1–2 cán bộ, chủ yếu là y tá hoặc hộ sinh, không có khả năng xử lý các ca bệnh phức tạp hoặc cấp cứu kịp thời. Trong khi đó, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể thấp còi tại Điện Biên vẫn duy trì ở mức cao (trên 25% ở nhiều vùng cao), phản ánh sự yếu kém trong cả hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu và an ninh dinh dưỡng hộ gia đình.

Trong lĩnh vực giáo dục, các điểm trường tại vùng cao vẫn còn thiếu cơ sở vật chất nghiêm trọng: nhiều phòng học xuống cấp, thiếu nhà công vụ giáo viên, thiếu phòng học bộ môn, thiết bị học tập lạc hậu. Học sinh ở các bản xa phải đi bộ nhiều cây số mỗi ngày để đến trường, qua những cung đường đồi dốc, mùa mưa lầy lội nguy hiểm. Tình trạng thiếu giáo viên, nhất là ở các môn học cốt lõi như Toán, Văn, Ngoại ngữ và Tin học vẫn phổ biến, trong khi tỷ lệ giáo viên biết tiếng dân tộc – một yếu tố then chốt để hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số – lại rất thấp. Chất lượng dạy học chưa bảo đảm, học sinh thường học yếu, kém tiếp thu, dẫn đến tỷ lệ lưu ban và bỏ học cao, đặc biệt tại cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Đáng lo ngại hơn, tỷ lệ bỏ học ở nữ sinh dân tộc có xu hướng gia tăng do tác động của phong tục, áp lực gia đình và thiếu môi trường học tập an toàn, bình đẳng giới.

Thực trạng này không chỉ làm gián đoạn quá trình phổ cập giáo dục mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng phát triển toàn diện của thế hệ trẻ – lực lượng kế thừa và là nguồn nhân lực chiến lược trong tương lai. Trong dài hạn, sự yếu kém trong dịch vụ y tế – giáo dục tạo nên vòng xoáy tái nghèo, làm suy yếu năng lực tự cường cộng đồng và làm trầm trọng thêm bất bình đẳng vùng miền.

Giải quyết bài toán này không thể chỉ dừng ở xây trường, mua thiết bị hay đào tạo giáo viên đơn lẻ, mà cần một cách tiếp cận tổng thể, gắn với đặc thù địa phương: (i) ưu tiên phân bổ nguồn lực cho vùng sâu, biên giới; (ii) xây dựng hệ thống y tế cơ sở theo mô hình “y tế cộng đồng thông minh”; (iii) tăng cường đào tạo và thu hút giáo viên vùng cao, đặc biệt là người dân tộc thiểu số; (iv) kết nối các trường với mô hình bán trú – nội trú linh hoạt để giảm tình trạng học sinh bỏ học. Chỉ khi y tế và giáo dục đạt chất lượng tối thiểu, người dân mới có thể nâng cao năng lực nội sinh, từng bước thoát khỏi đói nghèo và chủ động tham gia vào quá trình phát triển.

5. Khó khăn trong tiếp cận thông tin và công nghệ – Hố sâu cách biệt trong tiến trình hội nhập số

Trong kỷ nguyên chuyển đổi số và nền kinh tế tri thức, việc tiếp cận thông tin và công nghệ trở thành một trong những yếu tố quyết định năng lực hội nhập, tiếp cận cơ hội và giảm bất bình đẳng phát triển. Tuy nhiên, tại Điện Biên – một tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn – người dân vùng cao đang ngày càng bị tụt lại phía sau bởi rào cản kỹ thuật số. Nhiều bản làng ở các xã biên giới, vùng sâu vẫn chưa có sóng viễn thông ổn định, việc kết nối Internet chậm, yếu, thậm chí không tồn tại, khiến người dân không thể tiếp cận các dịch vụ hành chính công trực tuyến, thông tin khuyến nông, học trực tuyến hay các mô hình kinh tế số mới như thương mại điện tử, việc làm nền tảng số.

Điện Biên – Thách thức phát triển từ địa bàn đặc biệt khó khăn đến kỳ vọng đổi mới mô hình quản trị vùng cao - ảnh 2

Không chỉ thiếu hạ tầng, phần lớn người dân còn thiếu cả kiến thức và kỹ năng cơ bản trong sử dụng công nghệ thông tin. Những khái niệm như “dịch vụ công trực tuyến”, “thanh toán không tiền mặt”, “mã định danh cá nhân”, hay “ứng dụng ngân hàng số” vẫn còn xa lạ với đại bộ phận người dân ở nhiều xã vùng cao. Sự thiếu hụt này không chỉ khiến người dân bị gạt ra khỏi các chương trình chính sách mới, mà còn khiến họ bị lỡ nhịp với các cơ hội việc làm, tiếp cận thị trường và giáo dục – đào tạo từ xa.

Khoảng cách số (digital divide) tại Điện Biên không chỉ là biểu hiện kỹ thuật, mà là một dạng bất bình đẳng mới, có khả năng kéo giãn thêm khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa các nhóm dân cư – nhất là trong bối cảnh Nhà nước đang đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện. Nếu không có chính sách can thiệp sớm, quá trình hiện đại hóa sẽ vô tình làm gia tăng sự phân hóa xã hội, tạo ra một nhóm dân cư “bị bỏ lại phía sau” về công nghệ, thông tin và cơ hội phát triển.

Năm nhóm vấn đề – từ địa hình cách trở, tỷ lệ nghèo đa chiều cao, sinh kế bấp bênh, dịch vụ y tế – giáo dục yếu kém đến khó khăn trong tiếp cận thông tin và công nghệ – không tồn tại đơn lẻ mà có tính hệ thống và tương tác tiêu cực lẫn nhau, tạo thành một vòng tròn luẩn quẩn kéo dài sự tụt hậu của tỉnh Điện Biên. Đây không chỉ là những rào cản kỹ thuật hay tài chính, mà là thách thức về mô hình phát triển vùng cao trong điều kiện bất bình đẳng cấu trúc, đòi hỏi cách tiếp cận đa chiều, đa ngành và có trọng tâm.

Cần thiết lập một chương trình can thiệp đặc thù cấp tỉnh – vùng, được thiết kế riêng cho bối cảnh đặc thù như Điện Biên, kết hợp giữa đầu tư hạ tầng thiết yếu, phát triển sinh kế bền vững, nâng cao chất lượng dịch vụ công, tăng cường năng lực quản trị xã hội, và phổ cập năng lực số cơ bản cho cộng đồng. Chỉ bằng cách tháo gỡ đồng thời các “nút thắt” này, Điện Biên mới có thể thực sự chuyển mình, phát huy tiềm năng nội sinh, và trở thành hình mẫu phát triển bền vững cho khu vực miền núi – biên giới phía Bắc trong giai đoạn tới.

II. NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUẢN TRỊ HÀNH CHÍNH – XÃ HỘI CỦA TỈNH ĐIỆN BIÊN

Bên cạnh những hạn chế về đời sống dân cư, tỉnh Điện Biên cũng đang đối mặt với hàng loạt thách thức nghiêm trọng trong quản trị hành chính – xã hội, phản ánh sự thiếu đồng bộ và chưa hiệu quả của mô hình quản lý nhà nước tại địa phương miền núi, biên giới có điều kiện đặc thù.

1. Phân tán dân cư và cơ sở hành chính – Rào cản vật lý trong tổ chức bộ máy công quyền

Một trong những đặc điểm địa lý – xã hội nổi bật tại Điện Biên là tình trạng dân cư phân tán mạnh, nhiều bản làng nằm rải rác trên các vùng núi cao, xa trung tâm hành chính cấp xã từ 5 đến 30 km. Điều này gây khó khăn lớn trong việc tổ chức cung cấp dịch vụ công cơ bản, như y tế, giáo dục, tư pháp – hộ tịch, chính sách xã hội... Đồng thời, việc triển khai các chương trình tuyên truyền, tập huấn, khảo sát dân cư cũng gặp nhiều trở ngại vì cán bộ công chức cơ sở phải di chuyển bằng phương tiện thô sơ hoặc đi bộ trong nhiều giờ để tiếp cận cộng đồng. Thực tế này không chỉ gây tốn kém về thời gian và nhân lực, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến tần suất, chất lượng và tính kịp thời của các hoạt động hành chính – xã hội ở cấp cơ sở.

2. Nguồn nhân lực công quyền thiếu và yếu – Điểm nghẽn trong năng lực thực thi chính sách

Hệ thống cán bộ công chức tại nhiều xã, bản ở Điện Biên hiện đang đối mặt với tình trạng vừa thiếu người, vừa thiếu năng lực chuyên môn. Đặc biệt, cán bộ biết tiếng dân tộc thiểu số – một yếu tố then chốt để đảm bảo hiệu quả truyền đạt chính sách và tổ chức cộng đồng – lại rất khan hiếm. Một số xã, đặc biệt ở vùng biên, chưa có đội ngũ cán bộ đủ năng lực để triển khai bài bản các chương trình mục tiêu quốc gia hoặc chính sách phát triển dân tộc – miền núi. Hiện tượng “kiêm nhiệm đa chức năng” rất phổ biến: một cán bộ xã đồng thời phụ trách văn hóa, y tế, dân số, chính sách xã hội, thống kê… dẫn đến quá tải, mâu thuẫn chức năng và hiệu quả quản trị thấp. Đây là nút thắt về thể chế nhân sự, nếu không được tháo gỡ sẽ làm suy yếu toàn bộ hệ thống thực thi ở cấp cơ sở.

3. Khó khăn trong chuyển đổi số và cải cách hành chính – Khoảng cách số giữa chính sách và thực tế

Dù chuyển đổi số và cải cách hành chính là định hướng lớn của Chính phủ, nhưng tại Điện Biên, quá trình này gặp nhiều rào cản thực tế. Một phần do hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) chưa đồng bộ; phần khác do trình độ sử dụng CNTT của đội ngũ cán bộ cấp xã, thôn còn thấp, thiếu trang bị kỹ năng vận hành hệ thống quản lý mới. Người dân vùng cao cũng chưa quen hoặc không có điều kiện sử dụng dịch vụ công trực tuyến, nên các hệ thống như dịch vụ công mức độ 3 – 4, cơ sở dữ liệu dân cư, hộ nghèo, đất đai… chưa phát huy hiệu quả. Phần lớn các công việc vẫn thực hiện thủ công, dẫn đến tình trạng dữ liệu chồng chéo, cập nhật chậm và không đồng bộ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác ra quyết định, phân bổ ngân sách và giám sát chính sách ở địa phương.

4. Chi phí hành chính cao, phụ thuộc ngân sách trung ương – Hạn chế tự chủ phát triển địa phương

Mô hình quản trị tại tỉnh Điện Biên hiện vẫn phụ thuộc nặng vào ngân sách trung ương. Hơn 70% chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển của tỉnh là từ nguồn hỗ trợ của Chính phủ, trong khi khả năng thu ngân sách địa phương còn rất hạn chế do cơ cấu kinh tế yếu, ít doanh nghiệp lớn và thị trường tiêu thụ nhỏ. Việc triển khai các chính sách hành chính mới hoặc chương trình phát triển cấp tỉnh đều phải xin ý kiến hoặc chờ hỗ trợ từ cấp trên, gây mất chủ động và làm giảm hiệu quả phản ứng chính sách. Trong bối cảnh cải cách hành chính theo hướng tinh gọn – hiệu lực – hiệu quả, bài toán cân bằng giữa chi phí vận hành và năng lực tài chính địa phương là một thách thức lớn, đòi hỏi cơ chế đặc thù để tháo gỡ.

5. Thách thức về quản lý an sinh, dân tộc và tôn giáo – Vấn đề nhạy cảm trong ổn định xã hội vùng biên

Điện Biên là tỉnh có trên 20 dân tộc sinh sống đan xen, với sự đa dạng về tập quán, tín ngưỡng và ngôn ngữ. Đây là tài sản văn hóa lớn nhưng cũng tiềm ẩn những thách thức về quản lý xã hội nếu không có chính sách tuyên truyền – hòa giải – tương tác hiệu quả. Một số vùng giáp biên có nguy cơ cao về tệ nạn xã hội, buôn lậu, ma túy, di cư tự do, ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự – an toàn xã hội và tính ổn định của bộ máy quản lý nhà nước. Nếu không có cơ chế kiểm soát sát sao, chính sách truyền thông cộng đồng bằng tiếng dân tộc và các mô hình “tự quản cộng đồng”, các khu vực này có thể trở thành điểm nóng tiềm ẩn về an ninh xã hội, dễ bị lợi dụng bởi các luồng tư tưởng cực đoan hoặc các lực lượng phản động từ bên ngoài.

Những khó khăn trong quản trị hành chính – xã hội tại Điện Biên không chỉ là hệ quả của yếu tố địa lý, mà còn bắt nguồn từ cấu trúc thể chế chưa phù hợp, thiếu nguồn lực con người và hạn chế trong ứng dụng công nghệ quản lý hiện đại. Đây chính là cơ sở để đề xuất cơ chế đặc thù cho tỉnh, bao gồm: (i) mô hình quản lý cụm liên xã, (ii) phân cấp mạnh hơn cho cấp xã, (iii) chương trình đào tạo cán bộ trẻ tại chỗ, (iv) tổ công nghệ cộng đồng tại từng thôn bản, và (v) ngân sách theo kết quả đầu ra thay vì theo đầu mối hành chính. Việc đổi mới mô hình quản trị là chìa khóa để nâng cao năng lực nội sinh, hiệu lực điều hành và tạo động lực cho phát triển bền vững toàn tỉnh.

Điện Biên là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển về nông – lâm nghiệp và du lịch văn hóa, nhưng đang gặp những rào cản lớn về điều kiện tự nhiên, đời sống dân cư, năng lực quản trị, và kết nối hạ tầng. Để phát triển bền vững, cần chiến lược đồng bộ từ trung ương, kết hợp đổi mới mô hình quản lý nhà nước tại cơ sở, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng công nghệ số và lồng ghép chính sách dân tộc hiệu quả.

III. KHẮC PHỤC CÁC KHÓ KHĂN CƠ BẢN VỀ ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN VÀ QUẢN TRỊ HÀNH CHÍNH - XÃ HỘI TỈNH ĐIỆN BIÊN (GIAI ĐOẠN 2025 - 2030, TẦM NHÌN ĐẾN 2045)

Tỉnh Điện Biên là một trong những địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn của Việt Nam. Với trên 80% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, mức độ phát triển hạ tầng và dịch vụ công còn thấp, Điện Biên hiện đang đối mặt với những rào cản kép: vừa thiếu hụt nguồn lực phát triển, vừa thiếu khả năng hấp thụ và thực thi hiệu quả chính sách.

Trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy mạnh mẽ cải cách hành chính, chuyển đổi số, tái cấu trúc không gian phát triển vùng miền núi – biên giới, việc xây dựng một giải pháp tổng thể, khả thi và mang tính đổi mới cho Điện Biên là cần thiết. Giải pháp này không chỉ nhằm khắc phục các “điểm nghẽn” hiện hữu, mà còn đặt nền móng để địa phương này bước vào chu trình phát triển mới dựa trên nguyên tắc: đầu tư hạ tầng thiết yếu – thúc đẩy sinh kế bền vững – nâng cao chất lượng dịch vụ công – đổi mới mô hình quản trị.

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cải cách hành chính – số hóa đang diễn ra toàn quốc, các địa bàn miền núi đặc biệt khó khăn như tỉnh Điện Biên có nguy cơ bị “bỏ lại phía sau” nếu không có một chính sách can thiệp tổng thể, liên ngành và định hướng dài hạn. Với mục tiêu tổng quát là khắc phục các điểm nghẽn cốt lõi về đời sống dân cư, thu hẹp khoảng cách vùng, nâng cao năng lực quản trị và phát triển nền tảng dịch vụ công hiện đại, Giải pháp định hình một cấu trúc chiến lược gồm 3 trụ cột và 5 mục tiêu cụ thể đến năm 2030:

1.      Mục tiêu tổng quát:

Giải pháp hướng đến mục tiêu tổng thể là tạo ra chuyển biến căn bản và thực chất trong điều kiện sống, năng lực phát triển và tiếp cận dịch vụ công của người dân vùng cao, đồng thời xây dựng nền tảng thể chế và mô hình quản trị phù hợp với điều kiện địa phương, trên cơ sở:

Cải thiện rõ rệt khả năng tiếp cận hạ tầng thiết yếu (giao thông, y tế, điện – nước sạch, giáo dục...) cho các khu vực vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn;

Nâng cao năng lực quản trị xã hội và hành chính công tại cấp xã, thôn bản, thông qua việc tinh gọn bộ máy, phân cấp mạnh mẽ, và tăng cường nguồn lực cán bộ;

Từng bước hình thành nền tảng xã hội bền vững, có khả năng thích ứng với mô hình chính quyền số, quản trị hiện đại và định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn, phù hợp đặc thù vùng cao, biên giới.

2.       Mục tiêu cụ thể đến năm 2030:

Đến năm 2030, Giải pháp đặt mục tiêu đạt được các chỉ tiêu định lượng trọng yếu như sau:

Giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống dưới 15%, đảm bảo chuyển từ giảm nghèo hành chính sang tiếp cận giảm nghèo đa chiều, bền vững;

100% số xã có hệ thống giao thông kết nối ổn định quanh năm, đáp ứng yêu cầu tối thiểu về lưu thông, tiếp cận dịch vụ và phòng chống thiên tai;

Ít nhất 80% người dân vùng cao được tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, nước sạch đạt chuẩn, thông qua việc chuẩn hóa hệ thống cơ sở và phương thức phục vụ;

100% cán bộ cấp xã, thôn bản được đào tạo nghiệp vụ quản trị xã hội và tiếng dân tộc phù hợp, bảo đảm đủ năng lực tiếp cận, vận hành và truyền thông chính sách hiệu quả tại địa bàn;

Tối thiểu 70% thủ tục hành chính cơ bản được số hóa và triển khai đến cấp thôn, bản, góp phần thực hiện hiệu quả chuyển đổi số quốc gia và nâng cao chất lượng phục vụ người dân.

3. Cấu trúc giải pháp chiến lược

Trụ cột 1 – Khắc phục khó khăn về đời sống dân cư vùng sâu vùng xa

Điều kiện sống của người dân vùng cao, biên giới tỉnh Điện Biên hiện đang chịu tác động đồng thời của ba rào cản cấu trúc chính: (i) hạ tầng thiết yếu thiếu và yếu; (ii) sinh kế không bền vững, phụ thuộc thời tiết và tập quán canh tác truyền thống; và (iii) năng lực lao động bản địa thấp, khó hội nhập vào thị trường lao động hiện đại. Để xử lý các vấn đề này một cách căn cơ, Giải pháp đề xuất triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp sau:

a. Đầu tư hạ tầng thiết yếu – Phá thế chia cắt, tạo kết nối phát triển

Ưu tiên triển khai các tuyến đường liên xã, cầu dân sinh, hệ thống điện – nước sạch theo tiêu chuẩn kỹ thuật vùng cao, bảo đảm kết nối quanh năm giữa các bản làng và trung tâm xã.

Xây dựng trạm y tế cơ sở theo mô hình “thông minh”, tích hợp các chức năng y học dự phòng, khám chữa bệnh từ xa, hồ sơ sức khỏe điện tử và kết nối hệ thống y tế tuyến xã, tỉnh.

Ưu tiên đầu tư vùng biên giới, vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao, các xã chưa có hạ tầng tiếp cận dịch vụ công.

b. Phát triển sinh kế bền vững – Từ hỗ trợ ngắn hạn sang mô hình chuỗi giá trị bản địa

Mỗi bản được hỗ trợ phát triển ít nhất một mô hình nông nghiệp ứng dụng kỹ thuật, phù hợp sinh thái đặc thù (ví dụ: cây dược liệu, chăn nuôi bò – gà bản địa, cây mắc ca, sa nhân...).

Thiết lập quỹ tín dụng vi mô không cần thế chấp, ưu tiên cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, gắn hỗ trợ vốn với sản xuất theo chuỗi giá trị có sự đồng hành của doanh nghiệp hoặc hợp tác xã đầu mối.

Khuyến khích các mô hình hợp tác xã cộng đồng, tổ sản xuất thanh niên – phụ nữ dân tộc, nhằm gắn sinh kế với giữ gìn bản sắc văn hóa và ổn định cộng đồng.

c. Tái thiết hệ sinh thái lao động bản địa – Phát triển con người làm trung tâm

Thực hiện chương trình xóa mù chữ, phổ cập tiếng phổ thông cho người lớn, đồng thời xây dựng năng lực giao tiếp cơ bản bằng tiếng dân tộc cho cán bộ cơ sở.

Phối hợp giữa trường nghề – doanh nghiệp – hợp tác xã để triển khai các khóa đào tạo nghề ngắn hạn tại bản, phù hợp với điều kiện học tập và lao động thực tế của người dân vùng cao.

Gắn đào tạo nghề với đầu ra cụ thể (liên kết tiêu thụ – dịch vụ – việc làm địa phương), nhằm chuyển hóa từ hỗ trợ sang trao quyền chủ động phát triển kinh tế – xã hội cho chính cộng đồng.

Trụ cột 2 – Cải cách quản trị hành chính xã hội cấp cơ sở

Trong khi các đô thị có thể thúc đẩy cải cách hành chính bằng công nghệ và cơ chế thị trường, thì tại tỉnh Điện Biên – nơi địa bàn rộng, dân cư phân tán, tỷ lệ dân tộc thiểu số cao – thách thức cốt lõi không nằm ở quy trình, mà ở năng lực thực thi và tổ chức bộ máy cấp cơ sở. Cụ thể, nhiều xã thiếu cán bộ chuyên trách, cán bộ hiện có phải kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực, thiếu năng lực tiếng dân tộc và quản trị xã hội; trong khi đó người dân lại gặp khó khăn khi tiếp cận dịch vụ công do khoảng cách địa lý và hạn chế về kỹ năng số.

Giải pháp xác định rõ rằng: để đảm bảo các chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số phát huy hiệu quả, cần thực hiện một cuộc cải tổ toàn diện mô hình quản lý hành chính cấp xã – thôn, dựa trên 4 nhóm giải pháp chiến lược sau:

a. Tái cấu trúc mô hình quản trị – Tối ưu hóa bộ máy theo địa bàn cụm dân cư

Thí điểm mô hình “liên xã cụm bản” – gộp các xã, bản liền kề theo cụm địa bàn có tính tương đồng về dân tộc, địa hình và kết nối hạ tầng; đồng thời giảm số lượng đầu mối hành chính nhưng tăng hiệu quả tổ chức thực thi tại chỗ.

Mỗi cụm xã được tổ chức theo hướng tinh gọn – điều phối tập trung, giúp giảm chồng chéo, tăng tính linh hoạt trong điều phối nguồn lực và triển khai dịch vụ công.

b. Tăng cường nhân lực công quyền tại địa phương – Ưu tiên lực lượng bản địa có năng lực

Tuyển dụng công chức theo địa bàn, linh hoạt bằng hình thức hợp đồng có thời hạn, ưu tiên con em đồng bào dân tộc thiểu số có trình độ, gắn bó địa phương.

Triển khai chính sách hỗ trợ học phí đại học, cao đẳng, trường nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số cam kết về phục vụ chính quyền cấp xã – thôn, hình thành nguồn cán bộ kế cận lâu dài.

c. Đào tạo liên cấp và thiết lập hệ thống hỗ trợ tại chỗ

Xây dựng chương trình đào tạo 3 cấp liên hoàn: tỉnh– xã – thôn, bám sát nhu cầu thực tiễn từng vùng (ví dụ: hành chính công, tiếp dân, chính sách dân tộc, ứng dụng công nghệ...).

Mỗi xã có “Tổ công tác vùng sâu” – đơn vị bán chuyên trách, chịu trách nhiệm tiếp cận bản làng xa, hỗ trợ thực thi dịch vụ công và phản ánh kiến nghị người dân.

d. Thúc đẩy chuyển đổi số từ gốc – Đặt nền móng cho chính quyền số vùng cao

Thiết lập Trung tâm điều hành số cấp tỉnh, kết nối trực tiếp đến cấp xã, từng bước triển khai dữ liệu hóa các lĩnh vực dân cư, hộ nghèo, y tế, đất đai...

Tạo lập và vận hành “tổ chuyển đổi số cộng đồng” tại mỗi xã – gồm cán bộ trẻ, đoàn thể thanh niên hoặc giáo viên kiêm nhiệm, làm hạt nhân chuyển giao kỹ năng số, hỗ trợ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến và quản lý thông tin cơ bản tại địa bàn.

Trụ cột này có vai trò quyết định đến hiệu quả của toàn bộ Giải pháp, bởi nếu không có bộ máy cơ sở đủ năng lực, mọi đầu tư hạ tầng, sinh kế hay chính sách dân tộc đều chỉ dừng ở chủ trương. Giải pháp mà Giải pháp đề xuất mang tính thể chế – hành chính và có thể được nhân rộng sang các tỉnh miền núi khác nếu thí điểm thành công tại Điện Biên.

Trụ cột 3 – Quản lý dân tộc, văn hóa, biên giới và an sinh xã hội đặc thù

 Khác với các địa phương thuần nông hoặc đô thị hóa nhanh, tỉnh Điện Biên là một vùng không gian đặc thù, vừa là địa bàn chiến lược an ninh – quốc phòng ở cực Tây Bắc, vừa là vùng cư trú của hơn 20 dân tộc thiểu số với tập quán, ngôn ngữ và văn hóa đa dạng. Do đó, việc phát triển tỉnh không thể chỉ nhìn từ góc độ hạ tầng hay hành chính, mà phải tiếp cận theo chiều sâu văn hóa – dân tộc – an sinh – an ninh xã hội.

Giải pháp xác định trụ cột thứ ba như một phần không thể tách rời trong chiến lược tổng thể, với các nhóm giải pháp lồng ghép giữa bảo tồn, phát triển và ổn định xã hội.

a. Truyền thông chính sách đa ngữ – Thu hẹp khoảng cách hiểu biết chính sách

Tăng cường truyền thông chính sách bằng ngôn ngữ dân tộc thiểu số, bảo đảm người dân được tiếp cận thông tin bằng cách thức phù hợp, dễ hiểu.

Xây dựng và vận hành đài phát thanh xã bằng tiếng H’Mông, Thái, Khơ Mú, truyền tải nội dung về y tế, giáo dục, chính sách giảm nghèo, quốc phòng – an ninh.

Chuẩn hóa biểu mẫu hành chính song ngữ, ưu tiên trong các thủ tục cơ bản như đăng ký hộ tịch, đất đai, BHYT, bảo trợ xã hội... nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi tiếp cận dịch vụ công.

b. Giữ gìn và khai thác bản sắc văn hóa – Nền tảng cho phát triển hài hòa và bền vững

Xây dựng tại mỗi xã “Nhà sinh hoạt văn hóa dân tộc” – không gian tổ chức lễ hội truyền thống, phục dựng nghề thủ công (thêu, dệt thổ cẩm, làm nhạc cụ dân tộc, thuốc nam…), sinh hoạt cộng đồng.

Phối hợp giữa chính quyền và cộng đồng để lồng ghép bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch cộng đồng có chiều sâu, tránh “thương mại hóa hình thức” mà làm mai một giá trị bản địa.

Gắn hoạt động văn hóa với chương trình giáo dục địa phương trong trường học, nhằm nâng cao lòng tự tôn dân tộc và giữ gìn bản sắc cho thế hệ trẻ.

c. Bảo vệ an sinh xã hội vùng biên – Tăng cường ổn định và kiểm soát rủi ro xã hội

Thực hiện chính sách cấp bảo hiểm y tế miễn phí cho toàn bộ dân cư vùng đặc biệt khó khăn, ưu tiên hộ nghèo, dân tộc thiểu số, phụ nữ đơn thân, người cao tuổi.

Tăng cường chính sách định cư ổn định đối với các hộ sống rải rác vùng giáp biên, hỗ trợ xây dựng nhà ở, đất sản xuất, đồng thời kiểm soát chặt chẽ di cư tự phát – yếu tố gây áp lực lên hạ tầng và khó quản lý dân cư.

Tổ chức các cụm dân cư “an toàn – đoàn kết – phát triển” ven biên giới, lồng ghép giữa phát triển kinh tế, an sinh xã hội với quốc phòng – an ninh.

Chủ động ngăn chặn các luồng tư tưởng cực đoan, tôn giáo trái phép, tệ nạn xã hội và buôn bán ma túy qua biên giới, thông qua mạng lưới cộng đồng tự quản, kết hợp công tác dân vận và lực lượng chức năng.

Trụ cột này có ý nghĩa then chốt trong việc giữ ổn định xã hội vùng cao – biên giới, đồng thời nâng cao tính bền vững của các kết quả phát triển kinh tế – hạ tầng. Mô hình quản lý dân tộc – văn hóa nếu được triển khai đúng hướng sẽ trở thành lợi thế mềm cho tỉnh trong phát triển du lịch, gìn giữ bản sắc, củng cố quốc phòng toàn dân và tạo sức mạnh đoàn kết liên vùng.

3.      Cơ chế triển khai & huy động nguồn lực

Thành công của các giải pháp không chỉ phụ thuộc vào giải pháp kỹ thuật hay mô hình quản trị đề xuất, mà còn nằm ở cơ chế tổ chức triển khai linh hoạt và khả năng huy động nguồn lực đa chiều, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách nhà nước hạn hẹp, địa bàn rộng, dân cư phân tán và năng lực hấp thụ chính sách còn hạn chế tại cấp cơ sở. Để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả dài hạn, Giải pháp xác định hai nhóm cơ chế trọng yếu:

Cơ chế đặc thù – Đổi mới mô hình quản lý hành chính và phân bổ ngân sách

a. Mô hình “liên xã cụm bản” – Tổ chức hành chính theo cụm dân cư

Gộp các xã nhỏ, dân cư thưa và có điều kiện tương đồng về địa hình – văn hóa thành cụm liên xã, hình thành đầu mối hành chính – dịch vụ công theo cụm thay vì dàn trải từng xã.

Mô hình này giúp tối ưu hóa nhân lực, tiết kiệm chi ngân sách, đồng thời tăng cường năng lực quản trị điều phối theo vùng, thuận lợi trong triển khai hạ tầng, dịch vụ và giám sát cộng đồng.

b. Ngân sách theo kết quả đầu ra – Thay đổi tư duy “xin – cấp” truyền thống

Thí điểm cơ chế “chi ngân sách theo kết quả” (Performance-Based Budgeting) cho các xã đặc biệt khó khăn, thay vì cấp phát cứng theo đầu mối.

Cho phép xã chủ động thiết kế chương trình (xây dựng, đào tạo, quản lý…) theo mục tiêu rõ ràng, cam kết đầu ra cụ thể và chịu giám sát độc lập.

Cơ chế này khuyến khích sáng kiến cơ sở, tăng hiệu quả sử dụng ngân sách và minh bạch hóa trách nhiệm giải trình trong thực thi chính sách.

Huy động nguồn lực đa chiều

 a. Ngân sách Trung ương

Ưu tiên bố trí từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025 và kéo dài đến 2030.

Lồng ghép các nguồn vốn đầu tư công trung hạn cho vùng Tây Bắc vào các trụ cột của Giải pháp.

b. Vốn ODA và hợp tác kỹ thuật quốc tế

Kêu gọi hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ các đối tác phát triển: UNDP, World Bank, ADB, JICA, GIZ...

Ưu tiên các lĩnh vực: (i) xây dựng cơ sở dữ liệu xã hội và GIS phục vụ quy hoạch vùng; (ii) chuyển đổi số tại xã – thôn; (iii) quản trị chính quyền điện tử; (iv) giáo dục – y tế vùng dân tộc thiểu số.

c. Đối tác công tư (PPP)

Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực hạ tầng xã hội như:

Trạm y tế thông minh, trường học đa chức năng, trung tâm học tập cộng đồng;

Viễn thông vùng sâu, phủ sóng 4G/5G, lắp đặt thiết bị học tập trực tuyến, đài phát thanh xã.

Ưu tiên các doanh nghiệp xã hội, doanh nghiệp công nghệ, ngân hàng vi mô.

d. Cộng đồng kiều bào và nguồn lực xã hội hóa

Thành lập và kêu gọi tài trợ thông qua “Quỹ Vì Biên Cương Bền Vững”, do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh chủ trì, nhằm huy động đóng góp của:

Kiều bào gốc Điện Biên và vùng Tây Bắc;

Các hội doanh nhân, hội trí thức người Việt tại nước ngoài;

Các tổ chức thiện nguyện, quỹ phi lợi nhuận trong và ngoài nước.

Nguồn quỹ có thể dùng cho: học bổng, y tế lưu động, chương trình văn hóa cộng đồng, hỗ trợ sinh kế thanh niên – phụ nữ dân tộc...

Sự kết hợp giữa mô hình quản trị đặc thù – ngân sách theo hiệu quả – huy động đa nguồn lực sẽ giúp Điện Biên không chỉ vượt qua các rào cản truyền thống, mà còn từng bước hình thành hệ sinh thái phát triển nội sinh và bền vững, thích ứng với đặc thù vùng cao – biên giới trong giai đoạn chuyển đổi mô hình phát triển quốc gia.

IV. KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Từ những phân tích về điều kiện địa phương, đặc thù phát triển và yêu cầu thực thi hiệu quả Giải pháp, tỉnh Điện Biên đề xuất một số kiến nghị chính sách cấp quốc gia mang tính đột phá, nhằm bảo đảm tính khả thi, ổn định nguồn lực và khả năng nhân rộng mô hình cho các địa phương có điều kiện tương tự:

 1. Xem xét công nhận Điện Biên là địa bàn ưu tiên đặc biệt trong phân bổ ngân sách và chính sách phát triển giai đoạn 2025–2030

Căn cứ vào đặc điểm địa lý hiểm trở, dân số chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ nghèo cao và vai trò chiến lược về quốc phòng – an ninh khu vực biên giới Tây Bắc, đề nghị đưa Điện Biên vào nhóm tỉnh được hưởng cơ chế chính sách phát triển đặc biệt, tương tự các tỉnh cực Nam và Tây Nguyên trong giai đoạn trước.

Ưu tiên nguồn lực từ ngân sách Trung ương, vốn ODA và các chương trình mục tiêu quốc gia để thực hiện Giải pháp.

2. Cho phép thực hiện các cơ chế hành chính – ngân sách đặc thù đã nêu trong Giải pháp

Cụ thể:

Thí điểm mô hình hành chính “liên xã cụm bản” để phù hợp với điều kiện phân tán dân cư, giảm đầu mối bộ máy, tăng hiệu quả phục vụ.

Chi ngân sách theo kết quả đầu ra thay vì chi theo đầu vào, cho phép địa phương thiết kế giải pháp linh hoạt phù hợp với thực tiễn.

Phân cấp mạnh hơn cho cấp xã về quyết định đầu tư công quy mô nhỏ, ngân sách cộng đồng có sự giám sát của nhân dân.

3. Hỗ trợ triển khai thí điểm các mô hình quản trị đổi mới và chuyển đổi số cộng đồng đến cấp thôn, bản

Cấp kinh phí và hướng dẫn kỹ thuật cho việc xây dựng Trung tâm điều hành số cấp tỉnh, kết nối đến cấp xã và tổ chuyển đổi số cộng đồng.

Cho phép địa phương được sử dụng một phần ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư hạ tầng CNTT, thiết bị học tập số, truyền thanh thông minh và hệ thống dữ liệu địa phương hóa.

Ưu tiên chương trình chuyển giao công nghệ số gắn với đào tạo cán bộ trẻ vùng cao, nhân rộng mô hình “điểm số hóa cộng đồng” tại các thôn bản trọng điểm.

4. Tăng tỷ lệ ngân sách địa phương được giữ lại để chủ động triển khai các chương trình đặc thù

Kiến nghị điều chỉnh tỷ lệ điều tiết ngân sách cho địa phương (thu – chi ngân sách) theo hướng tăng tỷ lệ giữ lại, nhằm tăng tính tự chủ và chủ động trong triển khai các chương trình phát triển vùng cao, vùng dân tộc thiểu số.

Cho phép địa phương chủ động quyết định việc lồng ghép, điều chuyển vốn giữa các chương trình mục tiêu và vốn sự nghiệp nếu cùng mục tiêu giảm nghèo – phát triển bền vững.

5. Đưa mô hình “liên xã cụm bản” vào danh mục thí điểm chính sách quốc gia về phát triển vùng cao – biên giới

Kiến nghị Chính phủ và các bộ ngành liên quan đưa mô hình “liên xã cụm bản” vào danh mục thí điểm đổi mới quản lý hành chính tại vùng đặc biệt khó khăn, qua đó tạo cơ sở thể chế vững chắc để nhân rộng sang các tỉnh miền núi khác nếu thành công tại Điện Biên.

Đồng thời, đề xuất hỗ trợ ban hành hướng dẫn khung cho việc thực hiện thí điểm này trong giai đoạn 2025–2030.

Những kiến nghị trên là điều kiện quyết định để các giải pháp đi vào triển khai thực chất, đồng thời góp phần định hình một cách tiếp cận mới về phát triển vùng cao – biên giới, không chỉ tập trung vào trợ cấp mà hướng đến chuyển hóa mô hình quản trị và phát triển nội lực cộng đồng.

Tỉnh Điện Biên, với vị thế là một địa bàn chiến lược vùng biên giới Tây Bắc, đồng thời là nơi cư trú của cộng đồng hơn 20 dân tộc thiểu số, đang đối mặt với những thách thức phát triển mang tính hệ thống, kéo dài và chồng lấn – từ địa lý hiểm trở, nghèo đa chiều, hạ tầng yếu kém cho tới mô hình quản trị hành chính chưa phù hợp. Tuy nhiên, đây cũng là vùng đất giàu tiềm năng phát triển nông – lâm nghiệp, văn hóa bản địa đặc sắc và tinh thần cộng đồng gắn kết mạnh mẽ.

Giải pháp này không chỉ đưa ra các giải pháp xử lý tình trạng nghèo đói, yếu kém về hạ tầng hay năng lực hành chính đơn lẻ, mà đề xuất một hướng tiếp cận đồng bộ và đột phá, dựa trên ba trụ cột chiến lược:

Cải thiện điều kiện sống và sinh kế bền vững,

Đổi mới mô hình quản trị địa phương phù hợp điều kiện vùng cao,

Quản lý hiệu quả yếu tố văn hóa – dân tộc – biên giới – an sinh.

Tầm nhìn của Giải pháp không dừng lại ở việc “giảm nghèo”, mà là tái thiết mô hình phát triển cho một tỉnh miền núi biên giới trong thời kỳ chuyển đổi số và phát triển bao trùm, trên nguyên tắc: đầu tư có trọng tâm – trao quyền cho cộng đồng – tăng cường thể chế tại chỗ – và gắn kết các nguồn lực đa chiều.

Với sự đồng hành của Trung ương, các bộ ngành, các tổ chức phát triển quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp, tỉnh Điện Biên hoàn toàn có thể vượt qua giới hạn truyền thống để trở thành hình mẫu phát triển vùng cao bền vững, bản sắc và thích ứng, góp phần thu hẹp khoảng cách vùng miền, giữ gìn biên cương và khẳng định bản lĩnh dân tộc nơi phên dậu Tổ quốc./.