Tại Diễn đàn này, Luật sư Trương Anh Tú - Chủ tịch TAT Law Firm đã có bài tham luận làm rõ chuyên đề “Đổi mới sáng tạo – Tài sản vô hình là một trong những nguồn lực phát triển đất nước: Từ thực tiễn Nghị quyết đến thể chế”, để đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, Tạp chí điện tử Kinh doanh và phát triển xin giới thiệu nội dung chính của bài tham luận này.
Gọi đích danh “tài sản vô hình” là một nguồn lực then chốt
Lần đầu tiên trong lịch sử các văn kiện của Đảng, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã gọi đích danh “tài sản vô hình” là một nguồn lực then chốt, và đặt ra yêu cầu phải thể chế hóa đầy đủ các quyền đối với loại tài sản này, bao gồm: Quyền sở hữu, quyền định đoạt và tài chính hóa tài sản vô hình.
Đây là bước ngoặt mang tính tư duy - khi Đảng không chỉ đặt vấn đề “bảo vệ” tài sản trí tuệ, mà nâng nó thành vấn đề chiến lược của nền kinh tế thị trường hiện đại. Cụ thể, Nghị quyết khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”; “phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài”; “Xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam”; “bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng”; “bảo đảm kinh tế tư nhân cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận cơ hội kinh doanh và các nguồn lực của nền kinh tế, nhất là vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực hợp pháp khác”.
Theo tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW, đổi mới sáng tạo là một trụ cột của mô hình phát triển mới. Nhà nước phải tạo “hệ sinh thái pháp lý” để khuyến khích, bảo vệ và đầu tư cho đổi mới. Đây không còn là câu chuyện kỹ thuật, mà là một yêu cầu thể chế, đòi hỏi luật pháp, tài chính, giáo dục, SHTT, công nghệ – phải cùng chuyển động.
Hiện nay quy định của pháp luật, ngân hàng, thị trường còn phân mảnh. Tài sản vô hình ở nước ta đang được được xác định theo các nguồn như sau:
Thứ nhất, theo Bộ Tài chính, Điều 4 Thông tư 37/2024/TT-BTC ngày 16/5/2024 của Bộ Tài chính về Ban hành chuẩn mực thẩm định giá Việt Nam về thẩm định giá tài sản vô hình:
- Tài sản trí tuệ và quyền SHTT theo quy định của pháp luật về SHTT.
- Quyền mang lại lợi ích kinh tế đối với các bên được quy định cụ thể tại hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật ví dụ như quyền thương mại, quyền khai thác khoáng sản.
- Các mối quan hệ phi hợp đồng mang lại lợi ích kinh tế cho các bên, các mối quan hệ với khách hàng, nhà cung cấp hoặc các chủ thể khác, ví dụ như danh sách khách hàng, cơ sở dữ liệu.
- Các tài sản vô hình khác thỏa mãn điều kiện quy định như sau: Có bằng chứng hữu hình về sự tồn tại của tài sản vô hình; Có khả năng tạo thu nhập từ tài sản vô hình; Giá trị của tài sản vô hình có thể định lượng được bằng tiền.
Thứ hai, theo Luật Công nghiệp công nghệ số 71/2025/QH15 năm 2025, tài sản số là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử. Tuy nhiên, Luật này cũng không khẳng định: Sản phẩm bán dẫn (Chương III), Trí tuệ nhân tạo (Chương IV) có thuộc loại “tài sản vô hình”.
Thứ ba, Luật SHTT còn là “luật bảo hộ” – chưa phải “luật phát triển tài sản”, Luật hiện nay vẫn chủ yếu quy định về quyền và thủ tục đăng ký – chưa đủ điều kiện để biến IP thành tài sản có thể định giá, định danh, giao dịch, bảo hiểm, thế chấp.
Cần một luật tài sản trí tuệ tài chính hóa – cho phép đưa tài sản vô hình vào hệ thống kế toán, ngân hàng và đầu tư
Hiện ngân hàng chưa có cơ chế chấp nhận IP như tài sản đảm bảo. Cụ thể, ngân hàng thương mại vẫn ưu tiên thế chấp đất, xe, nhà xưởng. Thiếu hệ thống định giá IP, thiếu bảo hiểm IP, thiếu thị trường chuyển nhượng IP.
Ngoài ra, doanh nghiệp chưa sẵn sàng “tài sản hóa” ý tưởng. Nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ giá trị của IP, dẫn đến lơ là bảo hộ hoặc bán rẻ IP. Thiếu nguồn lực chuyên môn để xây dựng, định giá, khai thác và bảo vệ hệ thống tài sản vô hình.
Từ những rào cản nêu trên, cần thay đổi chính sách nhằm từ luật bảo vệ sang luật phát triển. Cụ thể, ba trụ cột chính sách cần được thể chế hóa ngay:
Một là, ghi nhận IP là tài sản tài chính hóa được. Theo đó, pháp luật phải cho phép IP được hạch toán, làm tài sản góp vốn, làm tài sản bảo đảm. Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các chuẩn mực định giá, chuẩn mực ghi nhận IP trong báo cáo tài chính.
Hai là, hình thành thị trường và hệ sinh thái định giá – giao dịch IP. Theo đó, cần xây dựng trung tâm định giá IP quốc gia, phát triển sàn giao dịch IP và quỹ đầu tư mạo hiểm dựa trên IP.
Ba là, bảo vệ quyền sở hữu mạnh mẽ – xử lý nghiêm vi phạm IP. Luật sư Tú cho rằng, Tòa án chuyên trách SHTT cần được kiện toàn và cơ chế thi hành án IP phải minh bạch, hiệu quả, răn đe.
Không thể chỉ trông chờ vào Nhà nước. Chính doanh nghiệp và đội ngũ luật sư phải là người tiên phong. Doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược tài sản vô hình: đánh giá, bảo hộ, đầu tư vào thương hiệu, quy trình, thiết kế, phần mềm… Luật sư cần đổi mới cách hành nghề: Không chỉ xử lý vi phạm, mà phải trở thành nhà tư vấn tài sản – nhà quản trị IP – và người bảo vệ quyền lợi trong nền kinh tế sáng tạo.
Nếu chúng ta cùng hành động – không chỉ để bảo vệ cái đã có, mà để nuôi dưỡng cái đang đến, thì tài sản vô hình sẽ không còn vô hình – mà sẽ trở thành trụ cột của phát triển quốc gia./.