Luật Quản lý thuế 2019 không theo kịp kinh tế số
Trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, giao dịch xuyên biên giới, thương mại điện tử và số hóa hoạt động sản xuất – kinh doanh đặt ra yêu cầu điều chỉnh kịp thời hệ thống pháp luật về thuế.
Sau gần 5 năm triển khai, Luật Quản lý thuế 2019 đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng, có tác động sâu rộng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế 2019 cũng bộc lộ nhiều hạn chế, cần sửa đổi, bổ sung toàn diện để phù hợp thực tiễn.
Đó là, quy định về nghiệp vụ quản lý thuế tại Luật QLT đã bộc lộ một số điểm nghẽn thể hiện qua ba nhóm vấn đề chính. Nhóm thứ nhất liên quan đến quy định về đăng ký, khai thuế và tính thuế chưa bao quát hết các tình huống thực tế. Nhóm thứ hai về quy trình nộp thuế và ấn định thuế bộc lộ bất cập về thời hạn nộp thuế, xử lý chậm nộp, ấn định thuế đối với người nước ngoài đề nghị miễn thuế thu nhập cá nhân. Nhóm thứ ba liên quan đến công tác hoàn thuế và quản lý chứng từ - hệ thống phân loại hồ sơ hoàn thuế hiện tại chưa tương thích với ứng dụng tự động, trong khi quy định về quản lý hóa đơn còn vướng mắc ở nhiều khía cạnh như thời điểm lập hóa đơn và áp dụng hóa đơn điện tử.
Quy định về quản lý thuế chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế số; Hạn chế trong ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số; Hạn chế trong kiểm soát gian lận: Thực trạng gian lận và trốn thuế đang diễn biến ngày càng tinh vi và phức tạp. Đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng gian lận trong các giao dịch xuyên biên giới, nơi kẽ hở về cơ chế giám sát và sự khác biệt giữa các hệ thống thuế quốc gia tạo điều kiện cho hành vi trốn thuế.
Các doanh nghiệp đa quốc gia thường lợi dụng việc chuyển giá, phân bổ lợi nhuận và các giao dịch phức tạp giữa các công ty liên kết để tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế. Trong khi đó, công cụ và năng lực giám sát của cơ quan thuế còn hạn chế, thiếu cơ chế trao đổi thông tin tự động với các nước, cũng như thiếu các giải pháp công nghệ hiện đại để phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận. Điều này đòi hỏi cần có sự đổi mới toàn diện trong cả khung pháp lý và công cụ quản lý để tăng cường hiệu quả kiểm soát gian lận thuế.
Phát biểu tại Hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Thuế Đặng Ngọc Minh cho biết, việc sửa đổi được thực hiện trên nguyên tắc minh bạch, khả thi, đồng bộ, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, đồng thời giảm chi phí tuân thủ và tạo thuận lợi tối đa cho người nộp thuế.
Chuyển từ tư duy “quản lý” sang “phục vụ”
Dự thảo Luật Quản lý thuế (thay thế) gồm khoảng 153 điều, trong đó nhiều điều khoản mới tập trung vào những định hướng quan trọng: Chuyển đổi số, hiện đại hóa quản lý thuế, ứng dụng công nghệ thông tin, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI) để nâng cao hiệu quả quản lý; chuyển đổi mô hình quản lý từ theo chức năng sang kết hợp theo đối tượng và chức năng, vừa chuyên sâu, vừa toàn diện.
Theo Phó Cục trưởng Đặng Ngọc Minh, Dự thảo Luật nhấn mạnh chuyển từ tư duy “quản lý” sang “phục vụ”, lấy người nộp thuế làm trung tâm. Đồng thời, thúc đẩy tuân thủ tự nguyện dựa trên phân loại rủi ro và mức độ tuân thủ; cải cách thủ tục hành chính, tăng cường chống thất thu, đảm bảo công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và củng cố kỷ luật tài chính – ngân sách.
Việc phân loại người nộp thuế theo rủi ro và thiết lập giải pháp quản lý phù hợp không chỉ khuyến khích tuân thủ mà còn ngăn ngừa vi phạm. Dự thảo cũng tăng cường quản lý kinh tế số, thương mại điện tử và hoạt động xuyên biên giới, tạo nền tảng cho một hệ thống thuế hiện đại, minh bạch và hiệu quả.
Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận định, việc sửa đổi Luật Quản lý thuế là cần thiết và kịp thời. Dự thảo Luật cũng đã thể chế hóa nhiều nguyên tắc quản lý hiện đại: quản lý dựa trên rủi ro, bản chất kinh tế quyết định nghĩa vụ thuế, quản lý số hóa, ứng dụng dữ liệu lớn và AI. Đồng thời, việc phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục, cắt giảm chi phí tuân thủ, thúc đẩy tuân thủ tự nguyện sẽ tạo thuận lợi hơn cho người nộp thuế.
“Cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao tinh thần cải cách sâu rộng của dự thảo, đặc biệt là định hướng chuyển từ “quản lý” sang “phục vụ”, lấy người nộp thuế làm trung tâm. Đây là luật ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí, thời gian tuân thủ và mức độ thuận tiện của doanh nghiệp, người dân”, ông Đậu Anh Tuấn đánh giá.
Đối với quy định phân loại người nộp thuế theo rủi ro và mức độ tuân thủ được quy định tại Điều 3, Điều 5, Điều 34, đại diện VCCI cho biết, cộng đồng doanh nghiệp mong Bộ Tài chính sớm công khai các tiêu chí phân loại, quy trình đánh giá rủi ro và mức độ tuân thủ, đảm bảo tính minh bạch, khách quan, tránh gây tâm lý e ngại cho doanh nghiệp.
Đối với việc xóa bỏ hình thức thuế khoán với hộ kinh doanh từ năm 2026 theo quy định tại Điều 13 dự thảo là một yêu cầu quan trọng của Nghị quyết 68, cần thiết để đảm bảo công bằng và chống thất thu. Song, cần có lộ trình hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp, đồng thời đơn giản hóa chế độ kế toán, khai thuế phù hợp với năng lực thực tế của họ.
Một vấn đề khác nhận được sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp đó là vấn đề kiểm tra và ấn định thuế tại Điều 22, 24, 25 Dự thảo Luật, cộng đồng doanh nghiệp đề nghị đảm bảo nguyên tắc không hình sự hóa quan hệ thuế – doanh nghiệp.
Việc kiểm tra cần hạn chế tối đa trùng lặp, kết hợp phương pháp từ xa, kiểm tra điện tử; tránh gây gián đoạn sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng đến niềm tin của doanh nghiệp. Việc ấn định thuế cần dựa trên dữ liệu rõ ràng, quy trình chuẩn, minh bạch và có cơ chế giải trình hiệu quả.