Quy mô và tình trạng các khu công nghiệp toàn quốc hiện nay

Đến cuối năm 2024, trên phạm vi cả nước đã có 447 khu công nghiệp (KCN) được thành lập theo quyết định hoặc giấy phép của cơ quan có thẩm quyền. Trong số này, khoảng 304 KCN đã đi vào vận hành, cơ bản hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật và sẵn sàng cho thuê, thu hút dự án đầu tư. Bên cạnh đó, vẫn còn 143 KCN đang trong quá trình xây dựng hoặc dở dang, phản ánh quy mô phát triển mạnh mẽ nhưng cũng cho thấy nhu cầu hoàn thiện hạ tầng và tiến độ triển khai còn khác nhau giữa các địa phương. Số liệu trên được Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) công bố và nhiều báo cáo thị trường năm 2025 dẫn lại như một căn cứ chính thức.

Về dòng vốn đầu tư, năm 2024 ghi nhận một dấu mốc quan trọng khi FDI đăng ký đạt 38,23 tỷ USD, trong khi vốn giải ngân ước đạt 25,35 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay. Điều này thể hiện niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường kinh doanh và sự hấp dẫn của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đáng chú ý, Bắc Ninh, Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh là ba địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút FDI với giá trị lần lượt là 5,12 tỷ USD; 4,94 tỷ USD; và 3,04 tỷ USD, khẳng định vị thế của các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn.

Tính lũy kế đến hết ngày 31/12/2024, Việt Nam đã thu hút khoảng 502,8 tỷ USD vốn FDI đăng ký, trong đó 322,5 tỷ USD đã được thực hiện, tương ứng với 42.002 dự án còn hiệu lực. Những con số này không chỉ minh chứng cho quá trình hội nhập sâu rộng mà còn phản ánh sức hút ổn định, dài hạn của Việt Nam đối với các dòng vốn đầu tư quốc tế.

Thực trạng và những bất cập về pháp lý

Về khung pháp luật hiện hành: Luật Đầu tư 2020: Chưa có quy định riêng cho đầu tư hạ tầng KCNST. Luật Đất đai 2024: Chưa tích hợp cơ chế ưu đãi về đất đai, miễn giảm tiền thuê đất đối với dự án KCNST. Luật Bảo vệ môi trường 2020: Có quy định chung về kinh tế tuần hoàn, nhưng chưa cụ thể hóa trách nhiệm của chủ đầu tư hạ tầng KCN trong việc áp dụng mô hình sinh thái.

Bên cạnh đó, Luật Quy hoạch 2017 còn thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch KCN với quy hoạch môi trường, năng lượng tái tạo và logistics xanh. Luật Kinh doanh Bất động sản 2014 (sửa đổi 2023): Chưa có cơ chế riêng cho hạ tầng KCN gắn với hệ thống tái chế, xử lý chất thải tập trung. Luật Thuế cũng chưa tạo ưu đãi về tín dụng thuế, khấu trừ chi phí đầu tư hạ tầng xanh.

Các nghị định và thông tư hướng dẫn như Nghị định 35/2022/NĐ-CP: Quy định quản lý KCN và khu kinh tế, đã đưa khái niệm KCNST nhưng còn mang tính thí điểm, chưa có cơ chế ràng buộc. Hay như Thông tư 05/2025/TT-BKHĐT: Hướng dẫn về KCNST, tuy nhiên thủ tục chứng nhận còn phức tạp, thiếu ưu đãi tài chính đủ hấp dẫn.

Bên cạnh đó, một số bất cập như thiếu tích hợp liên ngành giữa luật Đầu tư – Đất đai – Môi trường – Thuế; Ưu đãi hiện hành chưa đủ để bù đắp chi phí đầu tư hạ tầng sinh thái và cơ chế chứng nhận KCNST còn rườm rà, không khuyến khích doanh nghiệp hạ tầng tham gia cũng là rào cản đối với các doanh nghiệp.

Kiến nghị đề xuất sửa đổi, tích hợp pháp luật

Luật Đầu tư: bổ sung chương riêng về KCNST, yêu cầu tất cả các dự án KCN mới đều phải theo mô hình sinh thái. Luật Đất đai: Quy định miễn/giảm tiền thuê đất đối với phần diện tích hạ tầng xanh, khu xử lý tuần hoàn chất thải. Luật Bảo vệ môi trường: tích hợp quy định về trách nhiệm của chủ đầu tư hạ tầng KCN trong việc xây dựng hệ thống tuần hoàn năng lượng – nước – chất thải. Luật Thuế và các luật liên quan: Áp dụng ưu đãi thuế TNDN (miễn 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo) cho chủ đầu tư KCNST. Khấu trừ chi phí đầu tư hạ tầng xanh vào thuế. Hỗ trợ tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh. Luật Quy hoạch: quy định rõ KCNST phải gắn với hệ thống logistics xanh, năng lượng tái tạo, và khu tái chế tập trung. Luật Kinh doanh Bất động sản: bổ sung điều khoản cho phép kinh doanh dịch vụ tái chế, tuần hoàn trong KCN như một loại hình bất động sản hạ tầng.

Đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp sinh thái và bền vững tại Việt Nam - ảnh 1

Cùng với đó, cần xây dựng Luật Đầu tư Khu công nghiệp khi hiện nay Việt Nam hiện có gần 400 KCN, nhưng vẫn thiếu một luật thống nhất điều chỉnh đầu tư – quản lý – phát triển KCN. Lợi ích bao gồm, tích hợp đồng bộ các quy định hiện rời rạc ở nhiều luật. Xác lập cơ chế riêng cho KCNST, KCN chuyên ngành (công nghệ cao, chế biến nông sản, công nghiệp hỗ trợ). Tạo hành lang pháp lý vững chắc để huy động vốn tư nhân và quốc tế (FDI, quỹ ESG, quỹ carbon).

Đề xuất ưu đãi và chính sách cụ thể

Ưu đãi tài chính – đất đai như miễn tiền thuê đất tối đa 20 năm cho KCNST. Ưu tiên tiếp cận tín dụng xanh, vốn ODA, quỹ khí hậu. Cho phép tính toán và mua bán tín chỉ carbon trong nội bộ KCN. Ưu đãi về thuế như miễn/giảm thuế TNDN cho chủ đầu tư hạ tầng và doanh nghiệp trong KCNST. Miễn thuế nhập khẩu thiết bị, công nghệ xử lý chất thải, tuần hoàn. Chính sách hỗ trợ khác bao gồm thủ tục hành chính “một cửa” cho KCNST. Đào tạo nguồn nhân lực quản lý – vận hành hạ tầng sinh thái. Gắn KCNST với công nghiệp tái chế, năng lượng tái tạo, logistics xanh, hình thành cụm kinh tế tuần hoàn.

Kiến nghị lên Chính phủ và Quốc hội

Xây dựng Luật Đầu tư Khu công nghiệp, trong đó KCNST là định hướng bắt buộc cho tương lai. Sửa đổi, bổ sung các luật liên quan theo hướng tích hợp và đồng bộ hóa. Thiết lập cơ chế ưu đãi đặc thù, đủ hấp dẫn để mọi nhà đầu tư hạ tầng đều có động lực phát triển KCNST. Đẩy nhanh thí điểm và nhân rộng các mô hình thành công (Nam Cầu Kiền – Hải Phòng, Amata – Đồng Nai, VSIP – Bình Dương)./.