Việt Nam chịu nhiều tác động từ ô nhiễm rác thải nhựa

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động trực tiếp từ ô nhiễm nhựa biển, đang coi tiến trình xây dựng Hiệp ước toàn cầu về nhựa là động lực để đổi mới chính sách, cải thiện hạ tầng quản lý chất thải và chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn.

Báo cáo Rủi ro toàn cầu năm 2025 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) xếp ô nhiễm môi trường vào nhóm 10 rủi ro có tác động nghiêm trọng nhất trong thập kỷ tới, trong đó nhấn mạnh: “Ô nhiễm nhựa là một trong những thủ phạm chính. Đất liền, sông ngòi, bờ biển và các hệ sinh thái biển đang ngày càng bị ảnh hưởng nặng nề bởi chất thải nhựa.”

Theo thống kê, lượng rác thải nhựa phát sinh trung bình 8.039 tấn mỗi ngày, tương đương 2,93 triệu tấn mỗi năm
Theo thống kê, lượng rác thải nhựa phát sinh trung bình 8.039 tấn mỗi ngày, tương đương 2,93 triệu tấn mỗi năm

Ông Hoàng Xuân Huy, Giám đốc đối ngoại WWF Việt Nam cho biết, lượng rác thải nhựa phát sinh trung bình 8.039 tấn mỗi ngày, tương đương 2,93 triệu tấn mỗi năm. Mức tiêu thụ nhựa dùng một lần và nhựa không phân hủy sinh học vẫn ở mức cao. Tình trạng rò rỉ rác thải nhựa ra biển và vùng ven biển đáng lo ngại, với khoảng 70.000 tấn mỗi năm trôi dạt vào các nguồn nước, sông ngòi và ra biển.

Việt Nam đã đặt mục tiêu đến năm 2030 giảm 75% lượng rác thải nhựa đại dương, 100% khu du lịch loại bỏ nhựa dùng một lần và túi ni lông khó phân hủy, và 100% khu bảo tồn biển không còn rác thải nhựa. Theo ông Huy, các mục tiêu này hoàn toàn khả thi nếu tận dụng được cú hích chính sách và tài chính từ thỏa thuận toàn cầu đang được đàm phán.

Xây dựng lộ trình hành động quốc gia về rác thải nhựa

Tại Hội thảo “Việt Nam đối với tiến trình sau Phiên INC-5.2 Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa” diễn ra ngày 21/10, theo ông Vũ Đức Đam Quang, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang chỉ đạo xây dựng Lộ trình hành động quốc gia về rác thải nhựa tồn dư, tập trung vào bốn hướng chính:

Thứ nhất là chuẩn hóa phương pháp giám sát, thu thập và chia sẻ dữ liệu.

Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo, viễn thám và hệ thống thông tin địa lý để theo dõi sự phân tán của nhựa.

Ông Vũ Đức Đam Quang, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)
Ông Vũ Đức Đam Quang, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Thứ ba, bổ sung định nghĩa “rác thải nhựa tồn dư” vào Luật Bảo vệ môi trường và trích một phần nguồn thu từ cơ chế Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) cho hoạt động phục hồi môi trường;

Thứ bốn, thúc đẩy các mô hình thu gom cộng đồng, lắp đặt bẫy rác dọc sông ngòi, tổ chức chiến dịch làm sạch bờ biển và bảo đảm quyền lợi của người nhặt rác thông qua chính sách bảo hiểm, đào tạo nghề và hòa nhập vào chuỗi giá trị tuần hoàn.

Đây cũng là thời điểm Việt Nam cần đầu tư mạnh vào việc xây dựng hệ thống dữ liệu minh bạch về dòng chảy nhựa, phát triển thị trường nhựa tái chế an toàn, và hoàn thiện cơ chế EPR với các tiêu chuẩn kỹ thuật rõ ràng để phân bổ chi phí và trách nhiệm một cách công bằng hơn giữa Nhà nước và doanh nghiệp.

Tại Hội thảo, Việt Nam đã thể hiện quan điểm của mình tại INC-5.2, nhấn mạnh sự cần thiết của hợp tác công bằng, tôn trọng sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các quốc gia và ủng hộ cơ chế tài chính minh bạch để hỗ trợ các nước đang phát triển chuyển đổi ngành nhựa. 

Thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa cũng tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận tài chính xanh và tín chỉ nhựa. Các quy định về giảm nhựa nguyên sinh, tăng tái chế và minh bạch chuỗi giá trị sẽ thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải thiện quản trị môi trường.

Các chuyên gia cho rằng thỏa thuận nhựa toàn cầu sẽ tạo ra sự chuyển đổi mang tính bước ngoặt, thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và quy định trong nước, mở ra cơ hội tiếp cận các nguồn tài chính, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ nâng cao năng lực cho các quốc gia đang phát triển./.