Đây là khẳng định của Ths. Nguyễn Quốc Anh - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) tại Hội thảo khoa học với chủ đề “Xác lập mô hình tăng trưởng kinh tế gắn với tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2026 - 2030”.

Hội thảo được Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính tổ chức mới đây tại Hà Nội và đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà quản lý, các chuyên gia kinh tế.

Lợi thế lao động giá rẻ dần mất đi

Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế tại hội thảo, giai đoạn 2021-2025, kinh tế vĩ mô giữ vững ổn định và đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, thành tựu ấy cũng cho thấy “chiếc áo tăng trưởng cũ” đang ngày càng chật chội. Lợi thế lao động giá rẻ dần mất đi khi Việt Nam bước sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tốc độ tăng năng suất còn khiêm tốn, trong khi các nguồn lực vốn và tài nguyên không phải là bệ đỡ bền vững cho tương lai.

Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính Nguyễn Quốc Anh chia sẻ tại Hội thảo. Ảnh: Đức Thanh.
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính Nguyễn Quốc Anh chia sẻ tại Hội thảo. Ảnh: Đức Thanh.

Giai đoạn 2026-2030 được nhìn nhận sẽ là “thời điểm vàng” để quyết định vận mệnh kinh tế Việt Nam. Nếu chậm chân, lợi thế sẽ mất, vị thế sẽ khó nâng. Ngược lại, nếu dám dấn bước, Việt Nam có thể tạo nên “bước nhảy rồng” trong phát triển.

Tại hội thảo, đại diện Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính trình bày Báo cáo Đánh giá tình hình, kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025. Nghị quyết 31 đề ra 27 chỉ tiêu, tính đến nay có 23/27 chỉ tiêu có thông tin đánh giá. Trong đó, số chỉ tiêu có khả năng hoàn thành: 10/23; số chỉ tiêu khó có khả năng hoàn thành: 9/23 và số chỉ tiêu dự kiến không hoàn thành: 4/23.

Đáng chú ý, một số chỉ tiêu như: (1) tăng năng suất lao động; (2) số lượng các doanh nghiệp; (3) số lượng hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; (3) tỷ lệ hợp tác xã nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị; (4) tỷ trọng chi cho khoa học và công nghệ, trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi phải có nhiều nỗ lực rất lớn mới có thể đạt được.

Tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam đóng vai trò then chốt và không thể thiếu trong việc chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng cũ (dựa nhiều vào vốn, lao động giá rẻ, tài nguyên) sang mô hình mới hiệu quả hơn, bền vững hơn, dựa trên khoa học công nghệ, năng suất lao động cao, giải quyết các điểm nghẽn như năng suất thấp, nợ xấu, ô nhiễm, hướng tới tăng trưởng xanh, sáng tạo và bao trùm.

Chìa khóa ở đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và kinh tế xanh

Ths. Nguyễn Quốc Anh khẳng định, để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, thách thức đã khiến nhiều quốc gia chững lại khi nền kinh tế đạt trình độ nhất định, Việt Nam cần bước chuyển đủ mạnh để vươn tới khát vọng năm 2045: trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao. Vì thế, mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số trong giai đoạn 2026-2030 không chỉ là tham vọng, mà là yêu cầu mang tính sống còn. Một mục tiêu đầy thách thức, nhưng hoàn toàn khả thi nếu nền kinh tế được chuyển đổi dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và kinh tế xanh.

Theo TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, cần cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư công, quan trọng không kém việc tăng quy mô vốn. Theo đó, đầu tư công cho hạ tầng nên giảm dần về mức 50 - 55% tổng vốn đầu tư công, tương đương các nước trong khu vực; đồng thời tăng chi cho giáo dục đào tạo lên tối thiểu 20%, y tế 10 - 12%, khoa học công nghệ 3 - 5%.

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Đức Thanh.
Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Đức Thanh.

TS. Cấn Văn Lực đề xuất, phát triển đồng bộ và cân bằng hơn thị trường tài chính và tăng cường hợp tác quốc tế, đa dạng hóa các kênh huy động vốn, lập Đề án cải cách khu vực tài chính; Tăng cường vai trò của Ngân hàng Phát triển (VDB) thông qua tái cấu trúc, ứng dụng công nghệ thông tin, tinh gọn tổ chức-bộ máy, nâng cao chất lượng quản trị, nguồn nhân lực, hoàn thiện quy trình, phương thức phối hợp giữa VDB với các bên liên quan; Nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách, đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội và vốn đầu tư công theo các kế hoạch được phê duyệt; chú trọng công tác dự báo và giám sát an toàn hệ thống tài chính, nâng cao sức chống chịu, minh bạch và bền vững của hệ thống tài chính Việt Nam; Hoàn thiện số liệu, dữ liệu về đầu tư công, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, dữ liệu trong theo dõi, dự báo đánh giá tiến độ đầu tư công vừa phục vụ quản lý điều hành vừa bảo đảm điều chuyển vốn kịp thời cho phát triển bền vững.

Tiến sĩ Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh cũng cho rằng, kinh nghiệm quốc tế cho thấy các quốc gia có mức độ thành công cao trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng đều có chính sách tài chính đóng vai trò kiến tạo phát triển, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và dẫn dắt cơ cấu lại nền kinh tế một cách chủ động. Đồng thời cần chú ý, hoàn thiện khung chính sách tài chính, góp phần thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, minh bạch và hiệu quả./.