Đây là diễn đàn chính sách quan trọng, tạo không gian trao đổi giữa cơ quan quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu về những tác động của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đối với ngành năng lượng trong bối cảnh chuyển dịch xanh toàn cầu.
Phát biểu đề dẫn Hội thảo, ông Nguyễn Anh Tuấn - Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) cho biết, trong bối cảnh nền kinh tế có độ mở cao và tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (như CPTPP, EVFTA), Việt Nam đang chịu tác động ngày càng rõ nét từ các tiêu chuẩn xanh trong thương mại quốc tế. Khi các hàng rào thuế quan truyền thống dần được dỡ bỏ, những yêu cầu về phát thải carbon, môi trường và phát triển bền vững lại trở thành “hàng rào kỹ thuật” mới.
Các cơ chế như điều chỉnh biên giới carbon của Liên minh châu Âu hay các chính sách tương tự tại nhiều thị trường lớn cho thấy, nếu hàng hóa được sản xuất từ nguồn năng lượng phát thải cao, lợi thế cạnh tranh sẽ nhanh chóng bị suy giảm, bất kể mức thuế nhập khẩu có giảm về 0%. Vì vậy, chuyển dịch năng lượng không chỉ là yêu cầu về môi trường, mà đã trở thành vấn đề sống còn đối với năng lực cạnh tranh quốc gia. Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế khi đặt mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Để hiện thực hóa mục tiêu này, Quy hoạch điện VIII được phê duyệt với lộ trình chuyển dịch rõ ràng, ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, từng bước giảm phụ thuộc vào nhiệt điện than và coi điện khí LNG là nguồn năng lượng chuyển tiếp nhằm bảo đảm an ninh năng lượng trong giai đoạn quá độ.
Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch này diễn ra trong bối cảnh nhu cầu điện năng tiếp tục tăng nhanh, đặt Việt Nam trước áp lực kép vừa phải đáp ứng tăng trưởng kinh tế, vừa phải thực hiện chuyển đổi xanh toàn diện. Nhu cầu đầu tư cho nguồn điện và lưới điện lên tới hàng trăm tỷ USD trong thời gian tới là một thách thức lớn đối với nền kinh tế.
Theo ông Tuấn, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác về tài chính xanh, tận dụng các cơ chế tài chính hỗn hợp để chia sẻ rủi ro và thu hút nguồn vốn tư nhân cho các dự án năng lượng. Hợp tác công nghệ cần chuyển từ mô hình mua bán thiết bị sang hợp tác phát triển, chuyển giao và nội địa hóa công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực lưới điện thông minh và lưu trữ năng lượng. Đồng thời, việc hoàn thiện thể chế, chính sách và thị trường năng lượng theo chuẩn mực quốc tế, gắn với các cam kết thương mại tự do, được coi là điều kiện tiên quyết để tạo môi trường đầu tư minh bạch, cạnh tranh.
PGS.TS. Phạm Hoàng Lương - Phó Chủ tịch Hiệp Hội Năng lượng sạch Việt Nam cho rằng, đổi mới công nghệ chính là nội dung cốt lõi của chuyển dịch năng lượng. Các trụ cột công nghệ quan trọng bao gồm nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế, phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo tiến tới tỷ trọng ngày càng cao trong hệ thống, điện khí hóa các lĩnh vực sử dụng năng lượng cuối cùng và chuyển đổi điện tái tạo thành các dạng năng lượng mới cho những ngành khó điện khí hóa trực tiếp, như thông qua các giải pháp Power-to-X. Những trụ cột này không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính mà còn tạo nền tảng cho một hệ thống năng lượng hiện đại, linh hoạt và bền vững.
Trong quá trình đó, hợp tác đa phương đóng vai trò đặc biệt quan trọng khi giúp đẩy nhanh đổi mới công nghệ và thu hút đầu tư. Thông qua chia sẻ nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy hợp tác công - tư và quốc tế, các quốc gia có thể tiếp cận nhanh hơn với các giải pháp năng lượng sạch, đồng thời từng bước giảm và chấm dứt hỗ trợ đối với nhiên liệu hóa thạch.
Hợp tác đa phương cũng góp phần hài hòa hóa chính sách và tiêu chuẩn về năng lượng tái tạo và năng lượng mới như hydro hay amoniac, từ đó thúc đẩy sự đồng thuận toàn cầu về mục tiêu giảm phát thải. Bên cạnh đó, việc điều phối các nguồn tài chính công quốc tế, kết hợp với tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư tư nhân, đặc biệt tại các nền kinh tế mới nổi, được xem là chìa khóa để đáp ứng nhu cầu vốn rất lớn cho chuyển dịch năng lượng.
Tại Việt Nam, hợp tác đa phương trong đổi mới công nghệ năng lượng được định hướng gắn với các mục tiêu chiến lược như bảo đảm an ninh năng lượng, đa dạng hóa nguồn cung, thực hiện cam kết phát thải ròng bằng không vào năm 2050 và tái cơ cấu ngành năng lượng theo hướng xanh, bền vững và thị trường cạnh tranh. Việt Nam đã và đang triển khai nhiều hình thức hợp tác song phương và khu vực với các đối tác như: Liên minh châu Âu, Đức, Pháp, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc cũng như trong khuôn khổ ASEAN và các hiệp định thương mại tự do như EVFTA. Các lĩnh vực hợp tác trọng tâm bao gồm: năng lượng tái tạo, năng lượng mới như hydro và amoniac, hiệu quả năng lượng và cả năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình.
PGS.TS. Phạm Hoàng Lương khẳng định, để tận dụng hiệu quả các cơ hội hợp tác đa phương, Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực khoa học - công nghệ trong nước, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đồng thời hoàn thiện thể chế và chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế. Khi khoa học công nghệ được đặt đúng vị trí trung tâm và hợp tác đa phương được triển khai một cách thực chất, Việt Nam không chỉ đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch năng lượng mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh, đóng góp tích cực vào nỗ lực toàn cầu ứng phó với biến đổi khí hậu.
Cũng tại diễn đàn, các diễn giả đã tập trung phân tích các nội dung trọng tâm như chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và tác động đối với thu hút đầu tư nước ngoài; cơ hội và rủi ro của chuỗi cung ứng năng lượng trong môi trường FTA; vai trò của khoa học công nghệ và hợp tác đa phương trong chuyển dịch năng lượng; chiến lược năng lượng xanh của Việt Nam trong bối cảnh mới; cũng như các vấn đề liên quan đến chuẩn mực kĩ thuật và hạ tầng kết nối lưới điện khu vực ASEAN.
Phiên thảo luận và hỏi đáp đã thu hút sự quan tâm của các đại biểu với chủ đề hợp tác quốc tế trong thực thi cam kết FTA, từ cam kết thương mại đến triển khai năng lượng bền vững. Các ý kiến thảo luận tập trung làm rõ những thách thức trong quá trình thực thi chính sách, vai trò của hợp tác công tư, điều kiện thu hút dòng vốn xanh dài hạn, cũng như năng lực tham gia chuỗi cung ứng khu vực của doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh giá trị chuyên môn, hội thảo còn đóng vai trò là cầu nối giữa cộng đồng doanh nghiệp với các cơ quan quản lý và chuyên gia, góp phần thúc đẩy minh bạch thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và mở rộng hợp tác quốc tế./.