
Các chuyên gia kinh tế phát biểu tại buổi tọa đàm.
Tại buổi tọa đàm, các chuyên gia kinh tế đã cân nhắc về những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực đang tác động đối với kinh tế Việt Nam hiện nay, từ đó VEPR đã đưa ra các dự báo về tăng trưởng và lạm phát theo các kịch bản khác nhau về tình hình phòng, chống bệnh dịch.
“Với việc gỡ bỏ giãn cách xã hội sớm hơn dự kiến (từ cuối tháng Tư so với dự kiến cuối tháng Năm trước đây), chúng tôi có cơ sở nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam lên so với các dự báo trước. Theo đó, khả năng cao nền kinh tế sẽ đạt mức tăng trưởng 3,8% cho cả năm 2020. Ở một khả năng thấp hơn, nền kinh tế cũng có thể tăng trưởng 2,2% do những diễn biến bất lợi của bệnh dịch”, đại diện VEPR cho biết.
Kịch bản cơ sở (khả năng cao)
Trong kịch bản này, bệnh dịch sẽ không tái phát trong nước trong những tháng còn lại của năm nay và hoạt động kinh tế nội địa dần trở lại bình thường. Tuy nhiên, bệnh dịch ở nhiều trung tâm kinh tế – tài chính quan trọng trên thế giới được giả định thời gian dài phong tỏa sang nửa sau quý III của năm 2020 làm ảnh hưởng đến nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam và nhu cầu du lịch, lưu trú tại Việt Nam.
Theo đó, mức độ tác động của Covid-19 lên các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất, chế biến chế tạo và các ngành trong khu vực dịch vụ sẽ nghiêm trọng hơn. Tăng trưởng kinh tế cả năm được dự báo nằm ở mức 3,8%. Nhìn chung, tăng trưởng trong các ngành nghề sẽ ở mức khiêm tốn, trong đó các ngành bị ảnh hưởng nặng nhất bao gồm dịch vụ lưu trú, ăn uống, ngành khai khoáng và ngành kinh doanh bất động sản.

Ảnh minh họa.
Kịch bản bất lợi (khả năng thấp)
Ở kịch bản này, bệnh dịch trong nước dù vẫn được khống chế hoàn toàn trong thời gian còn lại của năm và hoạt động kinh tế dần trở lại bình thường. Tuy nhiên, bệnh dịch ở nhiều trung tâm kinh tế – tài chính quan trọng trên thế giới tái bùng phát mạnh, các nước phải kéo dài thời gian phong tỏa sang quý IV năm 2020 dẫn đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng nặng và không có khả năng hồi phục trong năm 2020, kéo theo đó là sản xuất trong nước tăng trưởng yếu và các ngành khai khoáng phục vụ công nghiệp có khả năng thu hẹp. Dịch vụ lưu trú và ăn uống không có động lực hồi phục do thiếu khách du lịch nước ngoài, trong khi nhu cầu trong nước với các loại hình dịch vụ này cũng bị hạn chế do tình hình kinh tế kém khả quan ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng. Trong kịch bản này, tăng trưởng kinh tế cả năm của nước ta được dự báo ở mức 2,2%.
Trong phần nêu khuyến nghị chính sách, báo cáo nêu rõ, do nguồn lực tài khóa hạn hẹp sau nhiều năm thâm hụt ngân sách, cùng với việc chính sách tiền tệ bị ràng buộc với các mục tiêu về lạm phát và tỷ giá, Việt Nam không thể theo đuổi các chính sách vĩ mô theo cách tương tự như các nước khác trên thế giới. “Trong trường hợp của Việt Nam, việc chủ động cắt giảm các chi phí bắt buộc như phí và hoãn/giảm thuế đối với doanh nghiệp có giá trị kích thích và hỗ trợ kinh tế hiệu quả hơn so với cứu trợ hoặc tài trợ trực tiếp”.
Báo cáo còn nói thêm, nếu thực hiện nới lỏng tiền tệ với quy mô lớn như nhiều nền kinh tế hiện nay thì có thể dẫn đến mất giá nội tệ, môi trường đầu tư trở nên rủi ro hơn, làm trì hoãn các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh đó, các chính sách an sinh xã hội như việc chi trả bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ người bị tạm thời ngưng việc, trợ cấp cho người nghèo, người bị mất kế sinh nhai nên được ưu tiên hàng đầu và cần được triển khai nhanh chóng, đúng đối tượng trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có.
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại nhất hiện nay là khả năng giải ngân các gói cứu trợ xã hội có thể chậm hoặc gần như bất khả thi, do mạng lưới thực thi kém hiệu quả và không tạo được niềm tin của người dân. Nói cách khác, “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng” là một vấn đề ngăn cản việc thực thi các ý tưởng hỗ trợ xã hội quy mô lớn hiện nay. Từ đó, một khuyến nghị quan trọng khác được các chuyên gia đề cập đến là “trong mọi tình huống, lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch”.
PHÚC HẬU