| Lời tòa soạn Kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước, là lực lượng không thể thiếu trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong những năm gần đây, khu vực này không chỉ đóng góp hơn 40% GDP, tạo ra hàng triệu việc làm mà còn từng bước khẳng định vai trò tiên phong trong đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chặng đường gần 40 năm đổi mới đã ghi dấu một Việt Nam kiên cường, bứt phá và khát khao phát triển. Từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kém hiệu quả, với thu nhập bình quân đầu người vẻn vẹn 96 USD vào năm 1989, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, dự kiến cuối năm 2025 sẽ bước vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình cao, tương đương mức trên 5.000 USD/người/năm. Quán triệt tinh thần đổi mới tư duy phát triển được xác lập tại Đại hội XIII của Đảng, hệ thống chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục được hoàn thiện. Đặc biệt, các nghị quyết trọng tâm như Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nghị quyết số 41-NQ/TW về xây dựng đội ngũ doanh nhân trong thời kỳ mới, cùng với Nghị quyết số 198/2025/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026… đã đặt ra những mục tiêu cụ thể và yêu cầu đổi mới phương thức quản trị quốc gia, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khu vực tư nhân phát triển bền vững, hiệu quả và bình đẳng. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh về tầm quan trọng của kinh tế tư nhân góp phần rất quan trọng định hình tương lai của nền kinh tế Việt Nam; Phát triển kinh tế tư nhân - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng đã khẳng định rằng: Lấy kinh tế tư nhân làm động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần có những cơ chế cụ thể như mạnh dạn đặt hàng, giao một số việc lớn. Trên tinh thần đó, tuyến bài chuyên sâu “Sức bật kinh tế tư nhân” của Tạp chí điện tử Kinh doanh và Phát triển được triển khai nhằm ghi nhận và tôn vinh những doanh nhân, doanh nghiệp tiêu biểu – những chủ thể đang trực tiếp hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước bằng năng lực nội sinh, sự đổi mới sáng tạo và tinh thần phụng sự xã hội. Thông qua những câu chuyện thành công, nỗ lực vượt khó và bài học thực tiễn từ thực địa, loạt bài không chỉ phản ánh sức sống và đóng góp ngày càng lớn của khu vực tư nhân, mà còn góp phần làm rõ hơn hiệu quả triển khai các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước – đặc biệt là Nghị quyết 68, với mục tiêu đưa kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng trong mô hình tăng trưởng mới. Kính mời quý độc giả theo dõi và đồng hành cùng loạt bài, nhằm lan tỏa những giá trị tích cực, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và khát vọng vươn lên của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. |
Trong khi thị trường chạy theo những “sàn bán hàng” khổng lồ và các chiến dịch chốt căn hộ thần tốc, ông Lương Xuân Hà chọn xây nền tảng trước: Đặt hạ tầng, tiện ích, cây xanh và chất lượng sống lên hàng đầu rồi mới tính đến những con số. Với ông, đô thị không phải là sản phẩm để bán, mà là hệ sinh thái để sống và sống tử tế.
Sinh năm 1961 tại Hà Nội, Lương Xuân Hà là doanh nhân kín tiếng trên thị trường bất động sản, để lại dấu ấn qua hệ sinh thái đô thị xanh Ecopark. Con đường khởi nghiệp của ông không dựa vào truyền thông rầm rộ mà bền bỉ tích lũy kỷ luật, chữ tín và sự kiên trì.
Sau thời gian nhập ngũ, ông trở về phố Hàng Bông tiếp nối nghề gia đình trong lĩnh vực đồng hồ, một công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ và đúng hẹn. Từ “gốc nghề” ấy, hai nguyên tắc vận hành được ông giữ làm nền tảng phong cách lãnh đạo là làm tử tế và giữ lời hứa.
Trước khi Ecopark được biết đến rộng rãi, Hà Nội từng quen khẩu hiệu “Chu đáo – Tin cậy – 77 Hàng Đào” gắn với cửa hàng đồng hồ tại số 77 Hàng Đào, khác địa chỉ với Hàng Bông nhưng cùng bối cảnh phố cổ, phản ánh tư duy đặt khách hàng ở trung tâm và coi uy tín là tài sản cốt lõi. Hiện ông là Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Ecopark (Ecopark Group).
Năm 2003, doanh nhân Lương Xuân Hà cùng các cộng sự thành lập Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Việt Hưng (Vihajico) với mục tiêu khi đó còn hiếm: Phát triển khu đô thị sinh thái quy mô lớn, đồng bộ hạ tầng – tiện ích, mật độ xây dựng hợp lý; đồng thời mở rộng định hướng sang giáo dục, y tế, nông nghiệp sạch, vui chơi – giải trí.
Cùng năm, Vihajico được chấp thuận triển khai Khu đô thị Ecopark tại Văn Giang (Hưng Yên), quy mô khoảng 500 ha, theo cơ chế đổi đất lấy hạ tầng trên cơ sở Luật Đất đai 1993: nhà đầu tư thực hiện tuyến đường từ cầu Thanh Trì đi thị xã Hưng Yên (đoạn qua Văn Giang – Dân Tiến, Khoái Châu) và được giao quỹ đất để phát triển khu đô thị.
Tổng mức đầu tư liên quan lên tới hàng nghìn tỷ đồng, trong bối cảnh vốn điều lệ ban đầu của Vihajico là 70 tỷ đồng - đặt ra yêu cầu cao về năng lực huy động nguồn lực, tổ chức thi công và quản trị rủi ro ngay từ giai đoạn đầu. Cơ chế BT vì vậy giữ vai trò then chốt trong bước khởi động dự án.
Đặt bối cảnh đó trong góc nhìn thị trường, ông David Jackson, Tổng Giám đốc Avison Young Việt Nam, nhận xét: “Với nhà phát triển tư nhân, tái tạo sức sống và sự đa dạng cho bất động sản là một thử thách khó hơn nhiều so với chỉ nhắm đến mục tiêu lợi nhuận. Thay đổi chiến lược đồng nghĩa với thay đổi cách thức phân bổ nguồn lực - dù là về không gian, chi phí, thời gian hay nhân lực.
Tuy nhiên, mỗi quyết định về bất động sản là cơ hội để chúng ta tạo ra giá trị và tác động tích cực để cải thiện thành phố và cộng đồng, từ đó kéo gần khoảng cách giữa thị trường hiện nay với cuộc sống người dân thành phố”.
Sau gần hai thập kỷ, năm 2019 doanh nghiệp đổi tên thành Công ty Cổ phần Tập đoàn Ecopark, đồng thời bổ nhiệm ông Trần Quốc Việt làm Tổng giám đốc, kế tiếp giai đoạn điều hành của ông Đào Ngọc Thanh, người góp phần định hình “cá tính sản phẩm” thời kỳ đầu.
Những mốc chuyển đổi này đánh dấu bước đi từ mô hình công ty dự án sang cấu trúc tập đoàn, nhấn mạnh chuyên nghiệp hóa bộ máy, chuẩn hóa vận hành và kiên định triết lý phát triển đặt cư dân làm trung tâm, ở trước – bán sau.
Ông Lương Xuân Hà cùng cộng sự đặt ra một mục tiêu rõ ràng sẽ kiến tạo một đại đô thị lớn do người Việt chủ trì, mang lại việc làm và giá trị cho người Việt. Không xuất thân từ “trường lớp” bất động sản, ê-kíp của ông chọn cách học trên thực địa, đi và quan sát những mô hình đã thành công, cách các đô thị tổ chức mảng xanh, không gian công cộng, mặt nước.
Trong một lần dừng chân tại Quảng Châu, hình ảnh những tuyến đường rợp bóng cây, dải hoa giữa dải phân cách đã để lại ấn tượng mạnh trong ông Lương Xuân Hà, khi ngay giữa rừng cao ốc, con người vẫn khao khát được trở về với thiên nhiên.
Chính từ những cảm hứng ban đầu, Ecopark mở rộng tầm nhìn ra thế giới. Singapore với chiến lược “City in a Garden” biến cây xanh và công viên thành hạ tầng quốc gia; Nhật Bản với khu đô thị vệ tinh Tama New Town được quy hoạch theo triết lý “human scale”, nơi mọi tiện ích hàng ngày nằm trong tầm đi bộ, khuyến khích cư dân gắn bó với không gian xanh và đời sống cộng đồng.
Qua những chuyến đi ấy, một nhận thức chung dần định hình rằng ngay giữa các đô thị chọc trời, con người vẫn mưu cầu được trở về với thiên nhiên với mặt nước xanh mát, những con đường rợp bóng cây. Từ đó, ý tưởng về một khu đô thị sinh thái mang tên Ecopark được phác thảo.
Những kinh nghiệm quốc tế này không được sao chép nguyên mẫu mà được Ecopark chọn lọc và bản địa hóa, tận dụng thủy hệ sông, hồ vùng Đông Bắc Hà Nội, gắn kết mảng xanh với thói quen sinh hoạt cộng đồng. Chính vì vậy, Ecopark trở thành một “Singapore xanh” phiên bản Việt, một “Tama bên sông Hồng” – vừa mang tinh thần quốc tế, vừa in đậm dấu ấn bản địa.
Câu hỏi lớn đặt ra sau khâu xây dựng là làm sao để người mua chọn ở, chứ không chỉ mua để đầu tư. Lời giải chính là nằm ở việc kiến tạo môi trường sống đích thực. Hạ tầng, trường học, công viên, thể thao, dịch vụ thiết yếu phải vận hành trước, để cư dân thấy nơi đây là một “chốn sống” đúng nghĩa.
Chỉ khi đời sống đã hình thành, sản phẩm mới được mở rộng. Và khi đó, thước đo thành công không còn là số mét vuông sàn đã bán, mà là tỷ lệ cư dân vào ở, là những ô cửa sáng đèn mỗi tối, đây là cách lượng hóa sức sống cộng đồng rõ ràng và bền vững nhất.
Ở Ecopark, thành công không đo bằng mét vuông sàn đã bán mà bằng dấu hiệu đời sống, tỷ lệ cư dân vào ở, những ô cửa sáng đèn mỗi tối. Triết lý “ở trước – bán sau” vì vậy trở thành nguyên tắc vận hành xuyên suốt, chỉ mở rộng sản phẩm khi hạ tầng, trường học, công viên, thể thao và dịch vụ thiết yếu đã vận hành ổn định.
Cách làm tưởng như “đi chậm” này lại tạo hiệu ứng bền, cư dân kết nối thành cộng đồng, cộng đồng kéo dịch vụ và dịch vụ nuôi giá trị tài sản. Ở cấp lãnh đạo, Chủ tịch Lương Xuân Hà duy trì nhất quán “cam kết cửa sổ sáng đèn” như một chuẩn mực thương hiệu của hệ sinh thái.
Ecopark Hưng Yên nằm ở Văn Giang, phía Đông Nam Hà Nội, gần Bát Tràng và trục cầu Thanh Trì, quy mô gần 500 ha. Quỹ đất rộng cho phép dành tỷ lệ lớn cho cây xanh, mặt nước và mạng lưới đường dạo bộ.
Vị trí cửa ngõ phía Đông hưởng lợi từ hệ thống giao thông liên kết liên tục nâng cấp hơn một thập kỷ qua, giúp cư dân thuận tiện đi làm tại nội đô nhưng sinh sống trong môi trường thư thái hơn.
Khác mô hình “phân lô – bán nhanh”, dự án đầu tư dày cho cấu phần không “bán được” nhưng quyết định chất lượng sống: công viên, hồ điều hòa, đường dạo, trường lớp và các trung tâm sinh hoạt cộng đồng.
Tư duy quy hoạch bám theo “bán kính sống” 5–10 phút, nhu yếu hằng ngày từ lớp học của con, cửa hàng tiện ích, nhà thuốc, quán cà phê đến khu thể thao đều nằm trong tầm đi bộ. Cách tổ chức này giảm phụ thuộc phương tiện cơ giới, khuyến khích vận động tự nhiên và gia tăng tương tác giữa cư dân.
Trên nền không gian mở, hệ sinh thái dịch vụ phát triển theo bước chân: F&B ven hồ, kiosk dịch vụ, các tuyến dạo có mái che xanh, sân chơi liên hoàn cho trẻ em,… Cuối tuần, chợ phiên, lễ hội theo mùa và hoạt động văn hóa biến quảng trường, công viên thành “phòng khách chung” của cư dân.
Song song, lớp tiện ích vận động hai tầng, không gian mở (công viên, đường chạy, tuyến xe đạp) và cơ sở huấn luyện (trung tâm thể thao, khu tập chuyên đề) phục vụ đa thế hệ: trẻ có sân chơi, người đi làm có đường chạy gần nhà, người cao tuổi có lối dạo ven hồ với ghế nghỉ theo nhịp.
Ngoài ý nghĩa môi trường và cảnh quan, Ecopark còn tạo tác động xã hội rõ rệt tại Văn Giang – Hưng Yên. Trong giai đoạn xây dựng, dự án đã tạo ra hàng chục nghìn việc làm trực tiếp và gián tiếp cho lao động địa phương, từ công nhân xây dựng, kỹ sư, nhân sự quản lý đến dịch vụ ăn uống, vận tải, thương mại phụ trợ.
Khi khu đô thị đi vào vận hành, chuỗi cung ứng nội khu tiếp tục mở rộng các tiện ích như siêu thị, trường học, y tế, an ninh, cảnh quan… giải quyết nhu cầu việc làm cho hàng nghìn người.
Sự hiện diện của Ecopark đã làm thay đổi diện mạo Văn Giang. Giá trị đất đai và hạ tầng được nâng lên, một vùng thuần nông lặng lẽ nay trở thành cực phát triển mới của tỉnh Hưng Yên. Không chỉ kiến tạo một khu đô thị xanh, Ecopark còn góp phần tái định hình cơ cấu kinh tế – xã hội địa phương, mang đến hàng chục nghìn việc làm, mở ra cơ hội mới và cải thiện chất lượng sống cho người dân.
Từ đó có thể thấy, Ecopark không dừng lại ở vai trò một dự án bất động sản, mà là một cách làm đô thị xuất phát từ những nhu cầu rất căn bản của con người, không khí trong lành, bóng cây, mặt nước, sự an toàn cho trẻ nhỏ, giúp người lớn dễ dàng vận động và gặp gỡ nhau…
Từ “đô thị sinh thái”, Ecopark tiếp tục hướng tới mô hình sống khỏe và bền vững, nơi vận động, dinh dưỡng và gắn kết cộng đồng được khuyến khích mỗi ngày, hình thành một “vùng sống xanh” đúng nghĩa.
Ecopark nhiều lần được vinh danh tại các giải thưởng uy tín. Năm 2022, tại London (Anh), International Property Awards – giải thưởng bất động sản lớn nhất thế giới đã vinh danh Ecopark là “Dự án phát triển nhà ở bền vững xuất sắc nhất châu Á”. Trước đó, năm 2020, tại giải thưởng Best Township Development châu Á - Thái Bình Dương, ban giám khảo đánh giá cao Ecopark nhờ “lối quy hoạch thông minh, đậm tính nhân văn, hài hòa giữa kiến trúc hiện đại và cảnh sắc thiên nhiên”, với mật độ 125 cây xanh/người và hơn 30% diện tích dành cho mặt nước.
Ở trong nước, năm 2018, Ecopark cũng đã được trao hai giải thưởng quan trọng: “Nhà phát triển bất động sản uy tín nhất” và “Dự án khu đô thị tốt nhất” tại Giải thưởng Quốc gia Bất động sản Việt Nam.
Sau khi củng cố “căn cứ” Hưng Yên với đại đô thị sinh thái đã đi vào nhịp sống thật, Ecopark chuyển sang một giai đoạn mở rộng theo mô hình đa cực, mỗi dự án là một “vệ tinh xanh” bám sát đặc trưng địa phương nhưng vẫn giữ chung một chuẩn mực vận hành và giá trị thương hiệu.
Ecorivers Hải Dương là cực mở đầu ở vùng Đông Bắc đồng bằng sông Hồng, được định vị như một đô thị bên sông trong lòng thành phố. Tận dụng lợi thế thủy hệ, dự án phát triển các trục dạo ven nước, quảng trường mở và những cụm thương mại, dịch vụ gắn với cảnh quan.
Nhà ở không chỉ là khối xây dựng, mà được “neo” vào không gian công cộng đa lớp: từ vỉa dạo rợp bóng cho tới bến xem sông, điểm ngắm hoàng hôn, sân chơi trẻ em thông thoáng. Cách tổ chức này khiến nhịp sống diễn ra “trên mặt đất”, kéo cư dân ra khỏi bốn bức tường để gặp gỡ nhau ở công viên, bên lạch nước, trong những buổi chợ phiên cuối tuần.
Ở một đô thị có lịch sử lâu đời như Hải Dương, bản sắc ven sông giúp sản phẩm không lẫn với nơi khác, đồng thời tạo cú hích cho dịch vụ bản địa như ẩm thực, thủ công, văn hóa phố nhỏ len vào đời sống của cư dân mới.
Ở miền Trung, Eco Central Park (Vinh, Nghệ An) có quy mô xấp xỉ 200 ha, là đô thị “cửa ngõ” Bắc Trung Bộ, khí hậu khắc nghiệt hơn, mùa hè nắng gắt, mùa mưa kéo dài. Bởi vậy, quy hoạch cần thích nghi với thời tiết địa phương, gia tăng mặt nước để làm mát, bố trí lớp cây tán lớn tạo bóng và cắt gió nóng, bố trí tiện ích theo bán kính 5–10 phút để cư dân hạn chế phải di chuyển dài dưới nắng hoặc mưa.
Dự án hình thành một “lá phổi xanh” mới cho thành phố, đồng thời kiến tạo mạng lưới thể thao, giáo dục, văn hóa đủ dày để gia đình trẻ có thể “ở lại cuối tuần”: từ lớp học gần nhà, sân thể thao cộng đồng, nhà sinh hoạt đa năng đến các tuyến dạo xuyên công viên. Tinh thần “đô thị sinh thái” vì thế không dừng ở cây và hồ, mà đi vào thói quen như đi bộ, đạp xe, sử dụng không gian công cộng hằng ngày.
Từ góc nhìn quy hoạch, GS. TSKH. Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh: “Quy hoạch là yếu tố đặt nền móng. Khi xây dựng đô thị thông minh và đáng sống, ngay từ bản quy hoạch dự án đã phải chỉn chu, thể hiện được sự thông minh, mạch lạc và yếu tố cốt lõi hướng đến cộng đồng”.
Phía Nam, Ecovillage Saigon River đặt tại Đại Phước – Nhơn Trạch (Đồng Nai) cũng mang tới một “ốc đảo xanh” của vùng đại đô thị TP.HCM mở rộng. Lợi thế ở đây là sông nước và tâm lý tìm một “nhịp sống chậm” ngoài lõi trung tâm.
Quy hoạch Ecovillage Saigon River bám sông, mở mặt nước nhiều nhất có thể. Trục dạo ven bờ uốn lượn nối những cụm sinh hoạt, thể thao, ẩm thực. Dự án đặt trọng tâm vào trải nghiệm well-being: vận động, dinh dưỡng, kết nối cộng đồng. Khi cư dân có thể thoải mái đi bộ dưới rặng cây, chạy bộ ven sông, đưa con ra sân cát, ngồi cà phê ngắm bến nước, “màu xanh” được chuyển hóa thành chất lượng sống có thể cảm nhận.
Theo ông David Jackson – Tổng Giám đốc Avison Young Việt Nam những dự án dành quỹ đất đáng kể cho mảng xanh không chỉ thể hiện tầm nhìn dài hạn của chủ đầu tư, mà còn mang lại giá trị gia tăng bền vững cho người sở hữu. “Với người mua ở thực, họ được thúc đẩy tạo lập cuộc sống lành mạnh, bền vững toàn diện từ nhà ra phố. Với nhà đầu tư, các sản phẩm nhà ở thấp tầng trong dự án bất động sản có tiềm năng tăng giá tích cực nhờ vào yếu tố không gian biệt lập và số lượng có hạn, từ đó đem lại thanh khoản và lợi nhuận đầu tư hấp dẫn trong dài hạn”.
Tư duy ấy cũng là điều dễ thấy trong hành trình kiến tạo đô thị sinh thái mà doanh nhân Lương Xuân Hà – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Ecopark, kiên định theo đuổi suốt hai thập kỷ. Thay vì tối đa hóa diện tích thương mại, ông Hà đặt ưu tiên vào không gian xanh, mặt nước và hạ tầng sống – những yếu tố “không bán được” nhưng lại “bán được mọi thứ khác”, bởi chúng kiến tạo giá trị dài hạn cả về chất lượng sống lẫn tiềm năng tài chính cho cư dân.
Điểm chung của ba “vệ tinh” nói trên là tỷ lệ cây xanh, mặt nước cao, cùng với mạng lưới dạo bộ, đạp xe liên tục, hạn chế cắt ngang của xe cơ giới. Cụm tiện ích đa tầng gồm giáo dục, thể thao, thương mại và văn hóa được bố trí theo tầm chân 5–10 phút và đặc biệt là bám địa hình – thủy văn bản địa để tạo bản sắc.
Không sao chép một “mặt bằng chuẩn”, Ecopark chọn cách dịch triết lý đô thị sinh thái vào từng địa phương, tôn trọng cái sẵn có của thiên nhiên và nếp sống, từ con sông, bãi bồi cho đến làn gió và hướng nắng.
Ở lớp tài chính, Ecopark theo đuổi kỷ luật “đòn bẩy vừa đủ”. Vốn chủ sở hữu được coi là “neo an toàn”, kết hợp với tín dụng và trái phiếu có tài sản bảo đảm theo chu kỳ đầu tư, dòng tiền bán hàng là nguồn bù đắp và quay vòng.
Trọng tâm của kỷ luật này không phải “vay được bao nhiêu”, mà là tiền được dùng vào đâu: hạ tầng, cảnh quan, trường học, công viên, kết nối—những hạng mục “không bán được” nhưng “bán được mọi thứ khác”.
Năm 2022, trong bối cảnh thị trường tín dụng và trái phiếu siết chặt, Ecopark công bố lợi nhuận sau thuế khoảng 2.395 tỷ đồng, tổng tài sản gần 26 nghìn tỷ, vốn chủ tăng, tỷ lệ nợ/vốn chủ giảm so với đầu năm. Những con số ấy cho thấy doanh nghiệp giữ sức tốt để duy trì đầu tư thiết yếu, không đánh đổi chất lượng dài hạn vì nhịp bán hàng ngắn hạn.
Song hành với mở rộng và vận hành là bản sắc thương hiệu, yếu tố khiến các dự án ở các vùng đất khác nhau vẫn nhận diện là một phần của Ecopark. Từ slogan đời thường “Chu đáo – Tin cậy – 77 Hàng Đào” của một cửa hiệu đồng hồ nơi phố cổ năm nào, hai chữ “chu đáo” và “tin cậy” được “nâng cấp” thành hệ giá trị doanh nghiệp.
Chu đáo với cư dân trong từng thiết kế, đường dạo có ghế nghỉ theo nhịp 50–70 mét, bóng cây liên tục, lối sang đường an toàn, chiếu sáng đồng đều… Tin cậy với đối tác trong chuẩn mực tiến độ, chất lượng, an toàn và minh bạch thông tin pháp lý, tài chính, quy trình.
Ở tầm sản phẩm, Ecopark kể câu chuyện bằng trải nghiệm sống. Những con đường rợp bóng cây dẫn về quảng trường nhỏ nơi trẻ em có thể chạy nhảy; tuyến dạo ven hồ nơi người lớn đi bộ, đạp xe; khu thể thao liên hoàn thay vì đơn lẻ; trường học và nhà sinh hoạt cộng đồng mở cửa sớm để nhịp sống không phải chờ đợi.
Ở tầm vận hành, doanh nghiệp theo đuổi mô hình “đô thị biết sống” với các chỉ số sống đo được: tỷ lệ hộ cư trú thường xuyên, mức sử dụng không gian công cộng theo khung giờ, sức khỏe chuỗi bán lẻ nội khu, mức hài lòng dịch vụ. Khi các chỉ số này duy trì tốt, dự án không chỉ “đẹp lúc bàn giao”, mà sống tốt theo thời gian.
Chủ tịch Lương Xuân Hà cho biết, Ecopark đang mở rộng các khu đô thị tại nhiều địa phương trên cả nước, vì vậy nhu cầu nhân lực chuyên sâu về quy hoạch xanh, quản lý vận hành đô thị, giáo dục cộng đồng là rất lớn. Mục tiêu cao nhất, theo ông, là đào tạo những con người có trách nhiệm với cộng đồng và có thể “làm thay đổi suy nghĩ một bộ phận xã hội khi đến với các khu đô thị Ecopark. Từ mục tiêu nhân lực ấy, tập đoàn ưu tiên các chủ đề then chốt như xây dựng văn hoá cư dân, an toàn đô thị, cộng đồng sức khoẻ… để đô thị không chỉ “xanh” về hình thức mà “sống tốt” mỗi ngày.
Nhìn rộng ra, hành trình từ Hưng Yên đến các “vệ tinh” Hải Dương – Vinh – Đồng Nai cho thấy một phương trình bốn vế: quy hoạch tử tế, kỷ luật tài chính, tổ chức linh hoạt, bản sắc nhất quán. Chính chiến lược nhân lực và các chương trình cộng đồng nêu trên là “bàn tay” giữ bốn vế ấy cân bằng trong vận hành hàng ngày. Thiếu một trong bốn, “đồng hồ đô thị” sẽ chạy sai nhịp.
Khi đô thị lên đèn mỗi tối, ô cửa sáng không chỉ là ánh sáng của một căn nhà, đó là chứng thực cho cách làm đô thị bắt đầu từ những nhu cầu rất người và kết thúc bằng niềm tin dài hạn. Ecopark, theo nghĩa ấy, không chỉ mở rộng địa lý mà họ đang mở rộng một nếp sống xanh hơn, gắn kết hơn, và bền vững hơn.
Trong mắt nhiều nhà quan sát thị trường, Lương Xuân Hà là mẫu nhà lãnh đạo kín tiếng, điềm tĩnh trong lựa chọn, bền bỉ trong thực thi và nhất quán trong cách giữ kỷ luật. Ông hiếm khi xuất hiện trên truyền thông, nhưng luôn có mặt ở những quyết định nền tảng từ định vị triết lý sản phẩm, kỷ luật tài chính đến chuẩn vận hành.
Chính sự nhất quán ấy giúp Ecopark giữ được “bản sắc” trước những vòng xoáy lên xuống của chu kỳ bất động sản. Thay vì chạy theo nhịp “nóng – lạnh” để tối đa hóa đòn bẩy ngắn hạn, ông giữ đường ray kỷ luật, chỉ làm trong vùng năng lực quản trị, không thỏa hiệp với chuẩn sản phẩm, và bảo vệ thương hiệu bằng những cam kết đúng hẹn.
Ở cương vị Chủ tịch, ông chọn đứng ở hậu trường của những nguyên tắc hơn là tâm điểm truyền thông. Thay vì chạy theo chỉ số bán hàng ngắn hạn, ông kiên định với triết lý “ở trước – bán sau”. Tập trung dồn nguồn lực cho phần lõi như hạ tầng kết nối, trường học, công viên, mặt nước, thể thao – sức khỏe, an ninh và quy trình vận hành những hạng mục “không bán được nhưng bán được mọi thứ khác”.
Khi nền tảng ấy đủ dày, đời sống cư dân tự khắc hình thành các dịch vụ nội khu có khách, cộng đồng có nhịp sinh hoạt, giáo dục vận hành ổn định. Lúc đó, giá trị tài sản và thương hiệu đến như hệ quả tự nhiên của một đô thị sống tốt, chứ không phải mục tiêu duy nhất phải theo đuổi.
Tư duy ấy cũng lý giải vì sao thước đo thành công ở Ecopark không phải mét vuông sàn đã bán mà là tỷ lệ cư dân vào ở và những ô cửa sáng đèn mỗi tối—một cách lượng hóa sức sống cộng đồng, đồng thời là “bài thi” khắt khe nhất đối với nhà phát triển.
Trong sinh hoạt quản trị, ông khuyến khích cách làm dựa trên chỉ số và bằng chứng: tiến độ hạ tầng, chất lượng tiện ích, độ an toàn, vận hành, mức hài lòng của cư dân; những bảng kế hoạch đẹp trên giấy chỉ có ý nghĩa khi được “đối chiếu” bằng trải nghiệm thực địa và phản hồi của người ở.
Ở lớp sâu hơn của chân dung, điều nổi bật ở Lương Xuân Hà là cách ông đối xử với thời gian như một “vật liệu” khan hiếm. Ảnh hưởng từ gốc nghề đồng hồ, ông ưu tiên sự đúng hẹn, tính chuẩn xác và khả năng duy trì nhịp vận hành dài hạn.
Một nét khác ít được nói đến là tư duy kế nhiệm. Ông kiên trì gây dựng đội ngũ quản lý trung gian, những người trực tiếp cầm nhịp công trường, dịch vụ cư dân, vận hành tài chính và coi họ là “đường gân” định hình cơ thể của một hệ sinh thái đang mở rộng. Thay vì săn lùng những “ngôi sao đơn lẻ”, ông lắp ghép các nhóm bổ trợ lẫn nhau, để mỗi địa phương có một ê-kíp hiểu khí hậu, nếp sống, hạ tầng và pháp lý sở tại.
Trong quan hệ với cộng đồng, ông chọn đối thoại kiên nhẫn. Đô thị là tổng hòa lợi ích, vì thế, thay cho những khẩu hiệu ồn ào, ông đề cao việc giải thích thấu đáo, ghi nhận phản hồi, chỉnh sửa chi tiết nhỏ nhưng chạm đến trải nghiệm lớn, lối sang đường an toàn hơn cho trẻ, hàng cây được che gió nắng đúng hướng, điểm nghỉ chân đặt theo nhịp bước chân người già, …
Về thẩm mỹ, ông ưa cái đẹp giản dị và bền lâu, đó là mảng xanh, mặt nước, lát dạo, ánh sáng buổi tối và những thứ bền theo năm tháng và ít lỗi mốt. Ông tránh công trình “phô diễn” rồi nhanh cũ, thay vào đó là các lớp tiện ích có thể mở rộng hoặc nâng cấp theo nhu cầu cư dân. Cách chọn này đòi hỏi sự kiềm chế, khó hơn nhiều so với việc dựng một hình ảnh bắt mắt trong ngắn hạn.
Điều ông theo đuổi không phải là một dự án “được nói đến”, mà là một đô thị có thể sống tốt mà không cần phải nói quá nhiều về nó. Khi tổ chức quen với nhịp đo – làm – kiểm chứng, người đứng đầu trở thành trục cân bằng giữa chất lượng, tài chính và trách nhiệm xã hội.
Đối với Lương Xuân Hà, phần thưởng nghề nghiệp không nằm ở bảng xếp hạng, mà ở những lát cắt đời thường như phụ huynh đón con qua một vạch sang đường có bóng cây, nhóm người già tập thở bên mép hồ, ánh đèn tối muộn từ một căn hộ mới dọn về. Đó là bằng chứng rằng quy hoạch có linh hồn, vận hành có trái tim và đô thị đã đủ ấm để gọi là nhà./.





