| Lời tòa soạn Kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế đất nước, là lực lượng không thể thiếu trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong những năm gần đây, khu vực này không chỉ đóng góp hơn 40% GDP, tạo ra hàng triệu việc làm mà còn từng bước khẳng định vai trò tiên phong trong đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chặng đường gần 40 năm đổi mới đã ghi dấu một Việt Nam kiên cường, bứt phá và khát khao phát triển. Từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kém hiệu quả, với thu nhập bình quân đầu người vẻn vẹn 96 USD vào năm 1989, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, dự kiến cuối năm 2025 sẽ bước vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình cao, tương đương mức trên 5.000 USD/người/năm. Quán triệt tinh thần đổi mới tư duy phát triển được xác lập tại Đại hội XIII của Đảng, hệ thống chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục được hoàn thiện. Đặc biệt, các nghị quyết trọng tâm như Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nghị quyết số 41-NQ/TW về xây dựng đội ngũ doanh nhân trong thời kỳ mới, cùng với Nghị quyết số 198/2025/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026… đã đặt ra những mục tiêu cụ thể và yêu cầu đổi mới phương thức quản trị quốc gia, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khu vực tư nhân phát triển bền vững, hiệu quả và bình đẳng. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh về tầm quan trọng của kinh tế tư nhân góp phần rất quan trọng định hình tương lai của nền kinh tế Việt Nam; Phát triển kinh tế tư nhân - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng đã khẳng định rằng: Lấy kinh tế tư nhân làm động lực quan trọng nhất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần có những cơ chế cụ thể như mạnh dạn đặt hàng, giao một số việc lớn. Trên tinh thần đó, tuyến bài chuyên sâu “Sức bật kinh tế tư nhân” của Tạp chí điện tử Kinh doanh và Phát triển được triển khai nhằm ghi nhận và tôn vinh những doanh nhân, doanh nghiệp tiêu biểu – những chủ thể đang trực tiếp hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước bằng năng lực nội sinh, sự đổi mới sáng tạo và tinh thần phụng sự xã hội. Thông qua những câu chuyện thành công, nỗ lực vượt khó và bài học thực tiễn từ thực địa, loạt bài không chỉ phản ánh sức sống và đóng góp ngày càng lớn của khu vực tư nhân, mà còn góp phần làm rõ hơn hiệu quả triển khai các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước – đặc biệt là Nghị quyết 68, với mục tiêu đưa kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng trong mô hình tăng trưởng mới. Kính mời quý độc giả theo dõi và đồng hành cùng loạt bài, nhằm lan tỏa những giá trị tích cực, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và khát vọng vươn lên của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. |
Năm 1989, tôi rời quân ngũ khi mới 23 tuổi. Hành trang mang theo không có gì nhiều, ngoài những điều tôi đã được rèn luyện trong đội khi là người lính trinh sát biên phòng. Đó là tính kỷ luật, tinh thần đồng đội và tình yêu với quê hương, đất nước. Và đến tận bây giờ, tôi vẫn thầm cảm ơn những ngày tháng tôi đã được làm một người lính.
Rời quân ngũ, tôi từng thử sức ở nhiều lĩnh vực, từ thương mại nhỏ lẻ cho đến kinh doanh vật liệu xây dựng. Lúc ấy, điều thôi thúc tôi chỉ đơn giản là làm sao thoát nghèo, làm sao có thể đứng vững giữa bao biến động của đời sống kinh tế thị trường. Nhưng rồi càng đi, tôi càng thấy nếu chỉ dừng lại ở “làm ăn” thì đời mình sẽ không đủ sâu.
Và nhân duyên đến vào năm tôi chạm mốc 36 tuổi. Đúng ngày 26/11/2001, tôi nhận quyết định bổ nhiệm làm Chủ tịch Công ty CP Công nghiệp tàu thuỷ Shinec (đến năm 2015, Công ty được tái cơ cấu lại và đổi tên thành Công ty CP Shinec), kiêm Tổng giám đốc.
Tôi và Shinec buổi đầu đó đã đi qua nhiều thăng trầm. Không chỉ sản xuất và hoàn thiện nội thất tàu thuỷ, cùng nhau phục dựng và đóng mới những chiếc tàu mang phong cách Đông Dương cho đối tác nước ngoài, Shinec còn tận dụng cơ hội từ thị trường, mở rộng sang mảng sản xuất thức ăn chăn nuôi cho tôm; chế biến kinh doanh hàng nông, thuỷ sản, trồng rừng, xây dựng…
Nhưng sự phát triển quá nhanh của Shinec những ngày đầu như một đứa trẻ mới lớn đang tập đi mà đã đòi chạy nhanh, nên những vấp ngã là không thể tránh khỏi. Cùng với đó, là những biến cố từ công ty mẹ đã khiến Shinec có những lúc dường như không đứng dậy nổi. Tôi đã từng phải rời khỏi công ty của mình để đảm nhiệm vị trí mới trong một cơ quan quản lý của nhà nước. Nhưng chỉ cần có cơ hội đến, tôi đã chọn quay lại và làm lại từ đầu.
Khi trở về Shinec, tôi đã mở rộng lĩnh vực hoạt động của công ty sang mảng đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp. Thập niên đầu của những năm 2000, tại Việt Nam, khái niệm khu công nghiệp sinh thái ở Việt Nam còn xa lạ. Lúc ấy, trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ táo bạo: Tại sao chúng ta chỉ nhìn đất như chỗ để cắm cọc dựng nhà xưởng, để bê tông hóa, để san lấp ao hồ, mà không nghĩ đến chuyện khi đã “lấy của đất” thì cũng phải “trả cho đất”? Nếu chỉ khai thác, tận dụng, bóc lột, thì đến một ngày, đất sẽ kiệt sức, và hậu quả lại quay về chính con người.
Là một người từng cuốc đất, trồng hàng nghìn hecta rừng, tôi không thể nhìn nổi khung cảnh một vùng đất lớn chỉ toàn những khối nhà bê tông, sắt thép, những cỗ máy khô khan và những cột ống vươn lên trời, nhả khói ngày đêm và bụi mờ phủ kín cả một không gian. Chỉ nghĩ vậy thôi, tôi đã thấy ngột ngạt.
Tôi bắt đầu những buổi đêm thức trắng, ngồi bên bàn làm việc chật hẹp, nghĩ về một khu công nghiệp có thể thở, có thể xanh, có thể tự hào là “người bạn” của thiên nhiên chứ không phải kẻ đối lập. Khi ấy, nhiều người bảo tôi “khó lắm, viển vông lắm”. “Gã khàn”, “Gã điên”, là những biệt danh đã gắn với tôi trong giai đoạn đầu tôi đi trên con đường riêng của mình. Nhưng càng nghe, tôi càng tin rằng đó là con đường mình phải đi.
Nam Cầu Kiền, khi tôi đặt chân đến, chỉ là vùng đất còn đầy ao đầm, lau lách, và hiu quạnh. Người ta nhìn thấy sự hoang sơ, còn tôi lại nhìn thấy tiềm năng. Đất ấy như một sinh thể, âm thầm chờ đợi một cơ hội để được đánh thức. Có người hỏi tôi: Tại sao lại chọn một vùng đất lầy lội, phức tạp về thủ tục, xa trung tâm thành phố? Tôi chỉ mỉm cười. Bởi đôi khi, cái duyên với đất không nằm ở sự thuận lợi, mà ở tiếng gọi thầm thì của nó.
Khi bước chân xuống bãi bùn, tôi có cảm giác như đất đang thử thách mình: “Ngươi có đủ kiên nhẫn để hiểu ta, để nâng niu ta hay không”? Vốn con nhà nông, từ thuở bé đã quẫy đạp với bùn lầy, sông suối, ao hồ, với những trưa chiều nắng gắt, tôi hiểu đất bao dung con người, nuôi dưỡng nguồn sống lớn lao như thế nào.
Những ngày ấy, không ít người ngăn cản, cho rằng tôi mạo hiểm. Nhưng tôi tin rằng, đất cũng giống như con người, cần một sự đồng cảm, cần một người tri kỷ. Đất Nam Cầu Kiền vốn trũng nước, hoang sơ, nhưng trong mắt tôi, đó lại là cơ hội để làm khác – để biến nơi từng bị coi là yếu thế thành một không gian của sự sống mới.
Chọn đất – chọn duyên, vì vậy, không phải là sự ngẫu nhiên. Đó là cuộc gặp gỡ giữa khát vọng của con người và sự chờ đợi của thiên nhiên. Tôi chọn Nam Cầu Kiền, nhưng tôi cũng tin rằng chính đất này đã chọn tôi. Nhờ vậy, mỗi khi đối mặt với khó khăn – từ thủ tục pháp lý, dòng vốn hạn hẹp cho đến sự hoài nghi của người đời – tôi lại nhớ đến giây phút ấy, để có thêm sức mạnh đi tiếp.
Không chỉ tôi, mà cả cộng đồng xung quanh cũng dần cảm nhận được triết lý ấy. Người dân từng lo ngại mất ruộng đất, nhưng khi thấy con em họ có việc làm, khi thấy cây xanh mọc lên, khi thấy môi trường được gìn giữ, họ đã ủng hộ. Các nhà đầu tư từng nghi ngờ, nhưng khi chứng kiến chi phí giảm nhờ tái chế, sản phẩm dễ dàng tiếp cận thị trường quốc tế nhờ đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, họ đã tin.
Tôi tin rằng, một triết lý chỉ thực sự sống khi nó thuyết phục được cả đất, cả người. Và đến hôm nay, nhìn lại Nam Cầu Kiền – từ vùng bùn lầy trở thành khu công nghiệp sinh thái kiểu mẫu – tôi thấy mình đã đi đúng con đường.
Triết lý này đến với tôi không phải trong một khoảnh khắc ngẫu hứng, mà là kết quả của bao đêm trăn trở. Kinh doanh trên đất – nghĩa là thừa nhận rằng tất cả thành công của ta đều bắt nguồn từ đất. Mỗi mét vuông, mỗi tấc đất là máu thịt của bao thế hệ nông dân, là di sản tổ tiên để lại. Nhưng nếu chỉ lấy đi, chỉ chất lên đó những khối bê tông, thì chẳng khác nào ta đang bào mòn chính sự sống của mình.
Trả lại cho đất – nghĩa là làm cho đất không mất đi giá trị nguyên sơ, mà còn được bồi đắp thêm. Tôi muốn khi dựng lên một khu công nghiệp, người ta không chỉ thấy khói bụi, máy móc, mà còn thấy màu xanh, thấy hồ nước, nghe tiếng chim hót. Tôi muốn khi công nhân làm việc, họ vẫn có thể dạo bước dưới tán cây, hít thở không khí trong lành. Tôi muốn khi một thế hệ đã qua, thế hệ sau vẫn tìm thấy ở đây một vùng đất còn sức sống.
Để biến triết lý ấy thành hành động, chúng tôi quyết định dành hơn 30% diện tích trong tổng số hơn 260ha đất của Khu công nghiệp cho cây xanh và mặt nước – một con số ít ai dám nghĩ đến. Hơn một triệu cây đã được trồng, 17 tiểu hệ sinh thái được phục hồi. Xỉ thép, vốn từng là gánh nặng, nay trở thành nguồn lợi nhuận. Nước thải sau xử lý, thay vì đổ đi, đã trở thành nguồn nước nuôi cá, tưới cây, làm mát thiết bị. Mỗi vòng tuần hoàn ấy là một lời hứa rằng chúng tôi sẽ không làm đất kiệt quệ.
Nhưng còn một bài toán rất khó nữa là vấn đề an sinh sau khi đất được dành cho xây dựng khu công nghiệp. Shinec đã phải tìm được giải pháp để thực hiện trách nhiệm các nghĩa vụ trong chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất của người dân để trở thành đất phục vụ cho dự án.
Tôi cùng Công ty đã thực hiện các hoạt động như đền bù tiền đất nông nghiệp cho người nông dân đầy đủ, an sinh xã hội với việc tạo sinh kế thông qua tuyển dụng người địa phương làm việc tại khu công nghiệp, cũng như thu mua các sản phẩm nông nghiệp từ nhân dân, khuyến khích người dân trong độ tuổi trưởng thành tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phục vụ trong khu công nghiệp.
Ngay từ khi bắt tay xây dựng Nam Cầu Kiền, từ đầu tháng 8/2007, Shinec đã có những khảo sát về nguồn nhân lực tại gần 19.000 hộ gia đình có đất thu hồi cho dự án, trong đó 74% là hộ làm nông nghiệp. Dự án đề ra mục tiêu đầu tiên là giải quyết bài toán thu nhập cho các gia đình để đảm bảo việc làm và thu nhập, chống đói nghèo.
Phương án được đưa ra là Công ty sẽ nhận những lao động phù hợp vào Công ty làm việc. Tiếp đó, Công ty phát triển vùng đệm nông nghiệp nằm xung quanh khu công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho người dân các xã bị thu hồi đất phát triển trồng trọt, chăn nuôi hộ gia đình và hình thành các mô hình trang trại, nhằm đảm bảo lợi ích bền vững giữa khu công nghiệp và nông dân xung quanh.
Chính triết lý này đã giúp tôi và Shinec thành này không dừng ở Nam Cầu Kiền. Nó trở thành kim chỉ nam cho tất cả những gì tôi và Shinec đang theo đuổi: Từ mở rộng sang Quảng Ninh, Lào Cai, đến Gia Lai, Hậu Giang. Mỗi vùng đất mới lại là một cuộc đối thoại mới với thiên nhiên, nhưng tinh thần vẫn không đổi: Kinh doanh phải gắn với trách nhiệm, lấy đi phải đi cùng trả lại.
Không ai ngờ một khu công nghiệp vốn được xem chỉ là nơi tập trung máy móc, khói bụi, lại dần trở thành một mô hình kiểu mẫu. Nam Cầu Kiền không chỉ có xưởng, có máy, mà còn có không gian văn hóa, có vườn cây, có hồ nước. Chúng tôi dựng lên Nhà văn hóa Võ Nguyên Giáp, tạo dựng Vườn Nhật Kyosei-no-niwa, mở ra không gian để công nhân và người dân cùng tham gia các hoạt động văn hóa cộng đồng.
Nhiều đoàn khách quốc tế đến, họ ngạc nhiên: “Tại sao trong khu công nghiệp lại có cả bảo tàng, khu sinh thái, không gian thiền định?”. Tôi mỉm cười: “Vì chúng tôi không chỉ kinh doanh cho hôm nay. Chúng tôi đang trả nợ cho đất và chuẩn bị món quà cho mai sau, cho ít nhất 200 năm sau”.
Các tổ chức trong nước và quốc tế ghi nhận Nam Cầu Kiền là mô hình khu công nghiệp sinh thái tiêu biểu của Việt Nam. Chúng tôi không ngừng cải tiến, từ việc áp dụng công nghệ xử lý nước thải tuần hoàn, đến quản trị năng lượng, rồi xây dựng hệ thống chia sẻ phụ phẩm sản xuất giữa các doanh nghiệp trong khu để hình thành lên 3 chuỗi cộng sinh công nghiệp tuần hoàn.
Shinec giờ đây đã trở thành điểm đến du lịch học đường của Hải Phòng, là điểm học tập thực tế của sinh viên nhiều trường đại học trong nước và quốc tế, là điểm đến thăm quan mô hình Khu công nghiệp sinh thái tiên phong tại Việt Nam của nhiều đoàn Học viên Chính trị quốc gia, của nhiều đoàn Đại sứ quốc tế… Mỗi thành quả ấy, với tôi, đều là bước tiến nhỏ trên hành trình thực hiện lời hứa với đất.
Nếu những năm đầu, ý tưởng của tôi bị xem là “khác thường”, thì nay, Nhà nước đã có khung pháp lý rõ ràng hơn để bảo vệ môi trường, tài nguyên đất và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn.
Ban đầu là Nghị định 82/2018/NĐ-CP, sau đó được thay thế bằng Nghị định 35/2022/NĐ-CP; tiếp đó là Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, Luật Đất đai 2024 đã siết chặt yêu cầu sử dụng đất hiệu quả, phát triển khu công nghiệp xanh. Tôi thấy đó như một sự cộng hưởng, một bước xác nhận rằng những gì mình làm không còn đơn lẻ, mà đã trở thành xu thế tất yếu.
Điều khiến tôi hạnh phúc nhất là các quy định pháp luật giờ đây đã coi trọng đúng mức sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và gìn giữ môi trường. Nhiều điều khoản về chuyển đổi khu công nghiệp sang mô hình sinh thái, về tiêu chí đánh giá phát thải, về tín chỉ carbon… đã mở ra cánh cửa rộng lớn cho những doanh nghiệp có tâm và có tầm. Nam Cầu Kiền, từ chỗ tiên phong, giờ đây trở thành hình mẫu để đối chiếu, tham khảo.
Không chỉ đáp gần như đầy đủ và vượt nhiều tiêu chí của một khu công nghiệp sinh thái theo quy định của Việt Nam, Nam Cầu Kiền do Shinec đầu tư tại Hải Phòng còn được UNIDO lựa chọn là 1 trong 37 KCN thuộc 7 quốc gia, để tham gia Chương trình KCN sinh thái toàn cầu (GEIPP).
Không chỉ dừng lại ở Xanh - Tuần hoàn, Shinec đang tiên phong xây dựng khu công nghiệp tích hợp AI trong quản trị khu công nghiệp. Xác định số hóa là trụ cột đầu tiên để nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cường tính minh bạch trong vận hành khu công nghiệp. Trong đề án chuyển đổi số tại Nam Cầu Kiền, Shinec đã triển khai nền tảng GreenSwift và ElectricSwift – hệ thống số hóa toàn diện từ quản lý phát thải khí nhà kính, tiêu thụ năng lượng, xử lý nước thải cho đến quản lý an ninh bằng AI camera.
Việc triển khai nền tảng số này không chỉ giúp Shinec đơn giản hóa tuân thủ các quy định môi trường, mà còn hỗ trợ ban lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng thông qua các bảng điều khiển trực quan trên cả nền tảng web và di động – thể hiện đúng chiến lược “Mobile First” mà Shinec theo đuổi.
Bằng việc tiên phong ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế số, Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền trở thành hình mẫu của ngành bất động sản công nghiệp trong nước. Qua đó, đưa Shinec trở thành nhà phát triển bất động sản công nghiệp xanh và thông minh hàng đầu Việt Nam. Hiện Shinec đang triển khai đồng loạt 8 dự án bất động sản công nghiệp mới tại nhiều tỉnh thành của Việt Nam; đồng thời đưa hình mẫu bất động sản công nghiệp này ra ngoài lãnh thổ Việt Nam thông qua các hợp tác quốc tế (với Đài Loan (Trung Quốc), Thái Lan, Nga, Trung Quốc…) mà Shinec đang triển khai. Hình mẫu khu công nghiệp Nam Cầu Kiền đang được tôi được áp dụng cho các dự án mới của Shinec và tư vấn cho các nhà phát triển khác có nhu cầu.
Với việc xây dựng Nam Cầu Kiền như một mô hình kiểu mẫu, tôi mong muốn không chỉ đưa Shinec trở thành thương hiệu hàng đầu Việt Nam trong việc phát triển các sản phẩm bất động sản công nghiệp luxury, mà sẽ góp phần quan trọng định hình lại tương lai ngành bất động sản công nghiệp, góp phần hiện thực hóa cam kết của Việt Nam về phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính.
Tôi biết hành trình này không dễ dàng, nhưng bằng niềm tin và sự quyết liệt, sự đoàn kết của tập thể người lao động trong Shinec, sự đồng lòng của các cộng sự, đối tác, chắc chắn, trên bản đồ phát triển của mình trong chặng đường 25 năm, rồi 30 năm… 200 năm nữa, Shinec là một hình mẫu của kinh tế xanh, tuần hoàn, kinh tế số.
Tôi hình dung tương lai, khi Việt Nam bước vào giai đoạn mới của hội nhập và phát triển, những khu công nghiệp sinh thái sẽ là điểm đến của dòng vốn chất lượng cao. Khi đó, Nam Cầu Kiền không chỉ là niềm tự hào của Shinec hay của Hải Phòng, mà sẽ là minh chứng cho khát vọng đổi mới của cả quốc gia.
Tôi cũng nghĩ nhiều đến thế hệ trẻ – những kỹ sư, công nhân, nhà quản trị tương lai. Họ sẽ tiếp nối, sẽ đi xa hơn những gì chúng tôi đã làm. Và tôi tin, họ sẽ vẫn giữ trong tim lời nhắc nhở: “Kinh doanh trên đất, trả lại cho đất”.
Đã gần hai mươi năm kể từ ngày tôi bắt đầu mơ về một khu công nghiệp khác biệt. Đã trải qua bao lần gian nan, bao lần tưởng chừng gục ngã, nhưng đến hôm nay, khi đứng giữa màu xanh của Nam Cầu Kiền, nghe tiếng chim ríu rít trên những hàng cây, nghe tiếng cá quẫy đuôi trong làn nước trong xanh, tôi biết mình đã đi đúng đường.
Tôi mong câu chuyện này sẽ được kể lại, sẽ được tiếp nối, để rồi một ngày, khắp đất nước, những khu công nghiệp xanh, những thành phố sinh thái sẽ mọc lên, như minh chứng cho một Việt Nam tự tin bước vào kỷ nguyên phát triển bền vững.
Bởi cuối cùng, chúng ta rồi cũng sẽ rời xa, chỉ có đất là ở lại. Và điều quý giá nhất ta để lại cho mai sau, chính là màu xanh!/.





