OECD dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững chắc, với tổng sản phẩm trong nước (GDP) ở mức 6,5% vào năm 2023 và 6,6% trong năm 2024. (Ảnh: Đức Trung)
OECD dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững chắc, với tổng sản phẩm trong nước (GDP) ở mức 6,5% vào năm 2023 và 6,6% trong năm 2024. (Ảnh: Đức Trung)

3 điểm nhấn quan trọng

Tại buổi công bố “Báo cáo Kinh tế của OECD: Việt Nam 2023” diễn ra vào sáng 26/4, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương đánh giá cao việc hoàn thành “Báo cáo Kinh tế của OECD: Việt Nam 2023” và bày tỏ tin tưởng rằng, đây sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng đối với nhiều bộ, ngành, cơ quan nghiên cứu của Việt Nam trong quá trình tham mưu xây dựng chính sách trong thời gian tới.

Ông Vincent Koen, Phó Vụ trưởng, Tổ chức OECD, đưa ra 3 thông điệp chính. Thứ nhất, chính sách kinh tế vĩ mô cần giúp tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế. Trong ngắn hạn, ưu tiên là giảm thiểu tác động của giá năng lượng cao thông qua hỗ trợ có đối tượng mục tiêu cho các hộ gia đình dễ bị tổn thương, thay vì thực hiện những biện pháp tài khóa mở rộng hơn nữa.

Trong trung hạn, Báo cáo nhấn mạnh yêu cầu phải củng cố các khung chính sách kinh tế vĩ mô bằng cách cải thiện tính bền vững tài khóa thông qua mở rộng cơ sở thuế. Đồng thời, cần tăng cường hệ thống bảo trợ xã hội và giảm quy mô của khu vực kinh tế phi chính thức.

Thứ hai, để duy trì tăng trưởng kinh tế cao sau khi phục hồi, Việt Nam cần cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh và tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số. Việc khơi dậy sức sống và tinh thần doanh nhân đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực theo hướng tinh giản các quy định, tăng tính minh bạch của các quy trình điều tiết và tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các bên tham gia thị trường bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị tư nhân.

Thứ ba, để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050, Việt Nam cần phải duy trì mức đầu tư cao cho năng lượng tái tạo và theo đuổi hiệu quả sử dụng năng lượng cao hơn. Định hướng này có thể được hiện thực hóa thông qua cách tiếp cận chính sách toàn diện, trong đó ưu tiên đầu tư nhà nước và tư nhân hiệu quả, thiết lập các quy định tạo thuận lợi và tạo cơ chế để giá cả thị trường phản ánh tốt hơn hàm lượng carbon.

Cũng theo ông Vincent Koen, triển vọng kinh tế toàn cầu hiện nay có nhiều bất ổn. Thế giới vẫn tiếp tục lo lắng về những “cơn gió ngược” đã quan sát được với nhiều rủi ro và nguy cơ. Nhiều ngân hàng trung ương tiếp tục nâng cao lãi suất để đối phó với lạm phát khiến các chi phí cho hoạt động kinh tế tăng cao trong tương lai gần, ảnh hưởng đến tình hình tài chính của một số quốc gia.

Tuy nhiên, diễn biến của nền kinh tế Việt Nam có những điểm khác biệt, đạt được nhiều tiến bộ trong cải cách và đổi mới để ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng phục hồi của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế khá vững chắc, cho dù phải đối mặt với nhiều khó khăn. Triển vọng tăng trưởng của Việt Nam khá cao, dự báo năm 2023 tăng trưởng 6,5% và tăng lên 6,6% vào năm 2024, cho thấy khả năng phục hồi của nền kinh tế.

OECD dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững chắc, với tổng sản phẩm trong nước (GDP) ở mức 6,5% vào năm 2023 và 6,6% trong năm 2024. (Ảnh: Đức Trung)

Cần cải cách, nâng cao chất lượng thể chế

Cũng tại Lễ công bố, ông Nguyễn Minh Cường, Kinh tế trưởng của ADB cho rằng, Báo cáo có ý nghĩa rất tích cực, nêu rõ được những đặc điểm của nền kinh tế và nhấn mạnh các vấn đề liên quan đến tái cơ cấu dòng vốn thương mại, thuế tối thiểu toàn cầu.

Theo đại diện ADB, trong bối cảnh khu vực và thế giới đang đẩy mạnh việc tái cơ cấu, Việt Nam cần tập trung vào việc cải cách; giải ngân đầu tư công để nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng; tập trung vào các lĩnh vực y tế, nâng cao kỹ năng, chất lượng lao động…những điều này mang tính quyết định trong việc nắm bắt cơ hội, đẩy mạnh thu hút đầu tư và giúp Việt Nam có những bước đột phá trong thời gian tới.

Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, nhất là tình trạng dân số sẽ già hóa nhanh sẽ gây áp lực với chi tiêu công khi độ bao phủ của hệ thống hưu trí vẫn ở mức thấp. Lao động làm việc tự do và lao động làm việc không thường xuyên đang có xu hướng gia tăng, đòi hỏi Chính phủ cần tăng mức độ bảo trợ xã hội.

Cùng với đó, quá trình biến đổi khí hậu cũng đang là một thách thức đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong trước mắt và dài hạn. Tỉ trọng thuế/GDP tương đối cao so với các nước trong khu vực; mức độ tích lũy vốn và khả năng năng suất lao động là yếu tố then chốt cần lưu ý.

"Do vậy, vấn đề quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay là thực hiện các giải pháp trước mắt để thúc đẩy tiếp tục phục hồi kinh tế. Đồng thời, phải có chính sách dài hạn tiếp tục nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải cách thể chế hướng tới chuyển đổi số và tăng trưởng xanh”, ông Cường nhấn mạnh.

Việt Nam đang là nền kinh tế nhận được nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư về lĩnh vực chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Rất nhiều nguồn lực từ bên ngoài đang muốn hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong các lĩnh vực này. Đánh giá khả năng hấp thụ vốn là rất quan trọng, chuyên giá của ADB cho rằng thể chế của Việt Nam cần tạo ra những điều kiện để hấp thụ tốt nguồn lực này.

Trước đó, báo cáo tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương và phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 3/2023, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng mặc dù khẳng định trong bối cảnh khó khăn gia tăng, tình hình kinh tế thế giới không thuận, tăng trưởng GDI quý I đạt 3,32% là “cơ bản tích cực”, ở mức khá so với bình quân chung của thế giới và khu vực, nhưng cũng nhấn mạnh rằng: “Kinh tế đang đối mặt nhiều khó khăn, thách thức”.

Dựa trên tốc độ tăng trưởng 3,32% của quý I, thấp hơn đáng kể so với kịch bản đề ra (5,6%), dự báo tình hình quý II và cả năm, Bộ trưởng cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã dự báo 2 kịch bản tăng trưởng.

Với kịch bản 1, tăng trưởng kinh tế cả năm dự kiến đạt 6%, thấp hơn 0,5 điểm phần trăm so với mục tiêu Quốc hội quyết nghị. Để đạt kết quả này, tăng trưởng các quý II, III và IV sẽ theo kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP, lần lượt là 6,7%, 6,5% và 7,1%.

“Trường hợp tăng trưởng năm 2023 chỉ đạt 6% sẽ gây áp lực rất lớn lên mục tiêu tăng trưởng 5 năm 2021-2025 (6,5-7%), đòi hỏi năm 2024 - 2025 phải đạt tăng trưởng bình quân gần 8%/năm để đạt mục tiêu 5 năm là 6,5%”, Bộ trưởng nói.

Trong đó với kịch bản 2, theo Bộ trưởng, để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm là 6,5%, tăng trưởng kinh tế quý II là 6,7% (bằng kịch bản Nghị quyết 01/NQ-CP). Trong khi đó, quý III và quý IV tăng trưởng lần lượt là 7,5% và 7,9%, cao hơn lần lượt 1 điểm phần trăm và 0,8 điểm phần trăm so với kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP.

“Đây là kịch bản rất thách thức, đòi hỏi nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói và cho rằng, hiện nay, hầu hết các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người dân thuộc Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế - xã hội đã hết thời gian thực hiện hoặc hiệu quả thấp. Do đó, cần sớm ban hành chính sách hỗ trợ mới như giảm thuế, phí…, tiếp tục phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay để kích thích tăng trưởng, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh.

Đề xuất hai kịch bản tăng trưởng kinh tế, song Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị lựa chọn Kịch bản 2, phấn đấu tăng trưởng cả năm là 6,5%, để tạo đà cho các năm tiếp theo để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng 5 năm 2021-2025 từ 6,5-7%.

Một lần nữa nhấn mạnh những khó khăn, thách thức của nền kinh tế, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, yêu cầu hiện nay là thực hiện các giải pháp điều hành quyết liệt, chủ động, kịp thời và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhịp nhàng hơn giữa các bộ ngành, địa phương, qua đó tranh thủ các cơ hội, dư địa chính sách đã được Quốc hội quyết nghị để tận dụng thời gian, cơ hội phục hồi nhanh và phát triển bền vững.