ISSN-2815-5823
PGS.TS. Đặng Văn Thanh
Thứ bảy, 10h01 22/11/2025

Kiên trì đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên năng suất chất lượng và hiệu quả

(KDPT) - Báo cáo chính trị (Dự thảo ) của BCH TW Đảng khóa XIII trình đại hội đại biểu toàn quốc Khóa XIV đã đánh giá khá sâu sắc về kết quả phát triển kinh tế, trong đó đã đánh giá kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được đảm bảo.

Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025 bình quân 6,3%/năm. Quy mô GDP  năm 2025 ước đạt 510 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 5.000 USD.Chất lượng tăng trưởng có chuyển biến tích cực, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47%. Cơ cấu kinh tế  chuyển dịch đúng hướng. Đó là những đánh giá rất đúng mức và là kết quả đáng mừng của kinh tế Việt Nam trong 5 năm vừa qua và hiện nay.

PGS.TS. Đặng Văn Thanh
PGS.TS. Đặng Văn Thanh

Tuy vậy cũng phải thấy, sau gần bốn thập niên Đổi mới, đất nước ta đã vươn lên mạnh mẽ, song cũng đang đối diện với những giới hạn mới của mô hình tăng trưởng cũ – một mô hình dựa nhiều vào vốn, tài nguyên và lao động giá rẻ. Mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất chất lượng, hiệu quả đã được thực hiện nhưng chưa thực sự mạnh mẽ. Năng suất chất lượng và hiệu quả, đặc biệt là sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, có thể thấy còn khoảng cách đáng kể so với các nền kinh tế trong khu vực. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân 5 năm 2021-2025 đạt khoảng 5,3% thấp hơn mục tiêu đề ra. Hệ số ICOR vẫn còn cao (6,9). Mô hình tăng trưởng kinh tế chuyển đổi chậm. Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa tham gia tích cực và đổi mới mô hình tăng trưởng và chưa trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Rõ ràng, muốn bứt phá, buộc phải sớm chuyển sang nền kinh tế dựa trên tri thức, sáng tạo và năng lực lãnh đạo quốc gia, mà ở đó con người chính là hạ tầng mềm của sự phát triển.

Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng lần thứ XIV đã nêu mục tiêu phát triển:..." Thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, hiện thực hóa tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao vì một nước Việt Nam hòa bình độc lập dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nên chăng câu cuối cùng nên trình bày lại như sau: Vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, công bằng, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, hoặc viết gọn như sau: Vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân giàu , nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Tập trung xây dựng một xã hội dân chủ như tên nước Việt Nam đã được đặt từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Đó cũng là mục tiêu đã xác định và theo đuổi trong những năm qua.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Để thực hiện được mục tiêu trên, Báo cáo đã nêu các nhóm giải pháp lớn như:

(1) Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước

(2) Xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính

(3) Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam

(4) Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới

(5) Đột phá phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số quốc gia

(6) Quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, chăm lo đời sống nhân dân.

(7) Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và các nhóm giải pháp về quốc phòng an ninh, quan hệ hợp tác quốc tế và hội nhập, xây dựng và chỉnh đốn Đảng

Về mô hình phát triển kinh tế và những giải pháp có liên quan phát triển kinh tế - xã hội như vấn đề thể chế, về phát triển bền vững, vấn đề nguồn nhân lực, khoa học công nghệ rất cần được quan tâm .

Trước hết, cần tiếp tục mô hình tăng trưởng kinh tế  đã và đang được đổi mới (chứ không phải xác lập mô hình tăng trưởng mới). Đó là  mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả, tức là nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh. Kiên quyết từ bỏ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn, tài nguyên và lao động giá rẻ. Sau gần bốn thập niên Đổi mới, bên cạnh nhiều thành tựu to lớn, cũng phải thấy các nguồn lực truyền thống – như lao động giá rẻ, vốn đầu tư nước ngoài hay tài nguyên thiên nhiên sẵn có đang dần tới giới hạn. Cần phát triển kinh tế dựa trên các nguồn lực khác trong đó có nguồn lực thể chế, khoa học công nghệ. Thế chế đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng nhất để đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới. Cần nhận thức: Trong thế giới hiện đại, sức mạnh và vị thế của một quốc gia không còn được quyết định bởi tài nguyên thiên nhiên hay quy mô dân số, mà bởi chất lượng thể chế, chất lượng tăng trưởng kinh tế . Chất lượng thể chế chính là năng lực của quốc gia trong việc kiến tạo và vận hành một hệ thống quy tắc công bằng, minh bạch, hiệu quả, khơi dậy sáng tạo và giải phóng mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế và xã hội. Kinh tế mạnh là tiền đề và điều kiện cho tăng cường an ninh và quốc phòng, cho mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế.

Cạnh tranh giữa các quốc gia xét đến cùng, chính là cạnh tranh về thể chế. Ai có thể chế tốt sẽ có cơ hội huy động nguồn lực nhanh hơn, phong phú hơn, sử dụng hiệu quả hơn cho phát triển kinh tế và vì vậy công cuộc  đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn. Ngược lại, đổi mới sáng tạo sẽ thúc đẩy tăng năng suất, gia tăng giá trị sản phẩm và nâng  cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp. Thể chế nói chung, thể chế kinh tế nói riêng được coi là hạ tầng mềm có thể quyết định hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã hội là hệ điều hành, hệ quản trị  quốc gia, định hình mô hình phát triển kinh tế, tăng năng suất, tốc độ và chất lượng phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, cần đề xuất và triển khai đồng bộ các giải pháp về phát triển khoa học công nghệ, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ, thành tựu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới, ngành kinh tế mới và thương hiệu cho riêng Việt Nam. Cần xác định các động lực tăng trưởng mới và lấy khoa học công nghệ là trọng tâm để làm mới các động lực tăng trưởng. Trong việc sắp xếp các cực tăng trưởng mạnh, các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, các đặc khu kinh tế thế hệ mới ngang tầm khu vực và toàn cầu. Khoa học công nghệ không thuần túy là khâu đột phá, là động lực chính trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới mà quan trọng hơn là đòn bảy chiến lược để thay đổi vị thế quốc. Vị thế Việt Nam chỉ có thể thay đổi trên thế giới và trước hết là trong khu vực Đông Nam Châu Á khi năng suất lao động, chất lượng hiệu quả và năng lực cạnh tranh được cải thiện, tiệm cận dần với các quốc gia dựa trên kết quả của khoa học công nghệ, kể cả khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng, công nghệ chế tạo và công nghệ quản lý, quản trị nền kinh tế, quản trị quốc gia. Cần tạo lập và vận hành một thị trường khoa học công nghệ sôi động và quan tâm thỏa đáng đến việc tạo ra những sản phẩm mới, dịch vụ mới mang thương hiệu Việt Nam, tham gia và có vị trí thế xứng đáng trong chuỗi sản xuất và cung ứng trong khu vực cũng như toàn cầu.

Thứ ba, một trong những yếu tố tác động đến phát triển kinh tế nhanh, bền vững, có hiệu quả là phải quan tâm nguồn nhân lực chất lượng cao. Dự thảo Báo cáo Chính trị nhấn mạnh đột phá về nhân lực, cho xây dựng đất nước và phát triển kinh tế. Đây là bước tiến lớn về tư duy. Báo cáo cho rằng, cần tập trung chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài;

Trong mô hình kinh tế mới, mô hình tăng trưởng mới rất cần nguồn nhân lực có chất lượng, được đào tạo, đồng thời vấn đề cần quan tâm là chuyển đổi cơ cấu một cách có chủ định mang tính lâu dài nguồn nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực, các cấp độ; có giải pháp tổng thể để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài. Muốn vậy phải có chủ trương rõ ràng, có các chính sách đầu tư thích đáng và phù hợp, động viên, tập hợp, chăm lo khích lệ đội ngũ trí thức, các nhà khoa học người Việt Nam cả trong và ngoài nước.

Thứ  tư, về cơ cấu kinh tế, cần có giải pháp cơ cấu toàn bộ nền kinh tế, cơ cấu ngành và cơ cấu vùng, cơ cấu sản phẩm. Mọi cơ cấu đều phải xuất phát và phù hợp đặc điểm và trình độ phát triển  kinh tế xã hội Việt Nam. Chuyển đổi quyết liệt và có chủ định cơ cấu kinh tế từ lĩnh vực kinh tế, ngành nghề, sản phẩm có năng suất lao động thấp sang lĩnh vực, ngành nghề có năng suất lao động cao, chi phí thấp trên  cơ sở nền tảng đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực và giữ vững các cân đối vĩ mô của nền kinh tế.

Thứ năm, cần xây dựng một nền tài chính quốc gia có tiềm lực mạnh, công khai minh bạc bao gồm cả tài chính nhà nước, tài chính danh nghiệp và tài chính dân cư trên quan điểm và theo mục tiêu chiến lược: “dân giầu, nước mạnh”, dân giàu thì nước mạnh và hùng cường. Dân và doanh nghiệp doanh nhân phải có khát vọng làm giàu, được làm giàu và làm giàu chính đáng. Tài chính nhà nước nắm vai trò chủ đạo, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư là động lực chủ yếu cho phát triển kinh tế và xã hội. Có chính sách khuyến khích động viên và tạo điều kiện để tiết kiệm tiêu dùng dành nguồn lực tài chính thỏa đáng cho đầu tư phát triển kinh tế, trong đó có nguồn lực từ tài chính nhà nước, nhưng quan trọng là nguồn lực tài chính từ doanh nghiệp, từ dân cư, từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Ban hành và vận hành các chính sách đề thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế và từ nước ngoài. Quan trọng là có chính sách đúng và đối xử với các đầu tư mang tính mạo hiểm. Trong đó có đầu tư cho nghiên cứu klhoa học, nghiên cứu sáng tạo sản phẩm mới, dịch vụ mới, những quy trình công nghệ và phương thức quản trị, những thử nghiệm mới. Cái khó trong hoạt động tài chính và hoạt động khoa học công nghệ là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữ nhà nước - thị trường - xã hội. Nguồn lực của đất nước sẽ được phân bổ tối ưu và sử dụng có hiệu quả hay không phục thuộc nhiều vào việc giải quyết hài hòa thỏa đáng mối quan hê hệ này. Tất nhiên một nền tài chính quốc gia thực sự lành manh là một nền tài chính quốc gia được hạch toán, được kiểm soát và luôn đảm bảo các cân đối thu chi, cân đối dòng tiền, đảm bảo sự bền vững của tài chính nhà nước, kiểm soát bội chi, nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước với chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ linh hoạt, đồng thời kiểm soát được mức độ vay và trả nợ của quốc gia, của chính phủ. Tất cả những điều đó sẽ góp phần vận hành một mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiếu sâu - năng suất, chất lượng và hiệu quả.

Tóm lại, sau 40 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã và đang bước vào một giai đoạn mới, một thời kỳ mới, đòi hỏi vận hành nền kinh tế theo mô hình phát triển mới, đó là mô hình phát triển và tăng trưởng kinh tế năng suất – chất lượng và hiệu quả. Việt nam cần tận dụng triệt để những thành tựu của khoa học công nghệ, những lợi thế trong hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng và toàn diện. Cần phát triển kinh tế dựa trên các nguồn lực thể chế, khoa học công nghệ và nguồn nhân lực. Chỉ có sớm chuyển sang nền kinh tế dựa trên tri thức, sáng tạo và năng lực lãnh đạo quốc gia, mà ở đó con người chính là hạ tầng mềm của sự phát triển, chắc chắn kinh tế Việt Nam sẽ bứt phá trong giai đoạn tới./.

Tài liệu tham khảo

 Báo cáo chính tri Đại hội Đảng XIV (Dự thảo)

 VUSTA- Kỷ yếu hội thảo  7-11-2025

 Nghị quyết Đại hội Đảng XIII



Kinhdoanhvaphattrien.vn | 05/11/2023

eMagazine
 
kinhdoanhvaphattrien.vn | 05/12/2025