Hoàn thiện khung pháp lý giúp ‘fintech cho vay’ tồn tại và phát triển
Nhu cầu vốn rất cấp thiết
Chị Xuân - chủ một cửa hàng kinh doanh buôn bán nhỏ tại TP.HCM cho biết, mỗi lần nhập hàng hàng đều cần số vốn khoảng 20-30 triệu đồng. Còn em trai chị là sinh viên, muốn mua điện thoại cũng có cần một khoản vay trả góp khoảng 10 triệu đồng. Thực tế, nhu cầu vay vốn đầu tư hay tiêu dùng rất phổ biến trong xã hội, việc này cũng góp phần tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, chị Xuân và em trai lại không hề dễ dàng vay vốn ngân hàng dù có nhu cầu thực.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 30/6/2023, tín dụng tăng 4,73% - thấp hơn so với cùng kỳ năm 2022. Việc tín dụng tăng chậm, ngoài vấn đề về nhu cầu tín dụng giảm mạnh bởi doanh nghiệp xuất khẩu thiếu đơn hàng, thì còn vì nhiều khách đi vay vốn nhưng không đáp ứng được điều kiện của ngân hàng.
Người dân gặp khó khi vay vốn ngân hàng. (Ảnh minh họa) |
Do đó, nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP, ngoài kênh cung ứng vốn truyền thống là ngân hàng, thì còn cần thêm những kênh cung ứng vốn khác để phục vụ nhu cầu khách hàng “dưới chuẩn” như các công ty tài chính, công ty P2P lending, fintech cho vay… Dù các công ty này áp dụng lãi suất cao hơn so với lãi suất ngân hàng, nhưng lại thấp hơn nhiều so với tín dụng đen.
Dù fintech chỉ mới xuất hiện tại thị trường Việt Nam từ vài năm nay, nhưng đã thu hút đông đảo sự quan tâm của người dân. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối năm 2020, đã có 4,8 triệu người đăng ký vay vốn thông qua các nền tảng P2P lending, tổng doanh số giải ngân là 93.000 tỷ đồng.
Tại sao lãi suất tại fintech lại cao?
Theo đại diện một công ty fintech, các công ty fintech thường giải ngân cho các khoản vay nhỏ (từ 1-15 triệu đồng), vì giá trị thấp nên tỷ lệ của chi phí vận hành cố định so với số tiền vay, có thể tới 35% khiến lãi vay bị đội lên.
Ví dụ, để giải ngân cho khoản vay có nợ gốc là 5 triệu đồng, dù cho vay trong 3 ngày hay 3 tháng thì fintech vẫn phải trả những chi phí cố định sau: Chi phí giải ngân và trả nợ cho mỗi khoản vay tối thiểu là 30.000 đồng; Chi phí kiểm tra thông tin tín dụng và KYC tối thiểu là 60.000 đồng với gói thấp nhất; Chi phí thẩm định đầu vào là 100.000 đồng; Chi phí bán hàng - tiếp thị khoảng 300.000 đồng; Chi phí quản lý rủi ro sản phẩm tín chấp (cao hơn thế chấp) từ 8-12% giá trị khoản vay. Ngoài ra, còn những chi phí chung như thuế, quản lý, kế toán chưa phân bổ thì chi phí khoản vay trên kỳ hạn 1 tháng chiếm từ 25-35% giá trị khoản nợ gốc.
Các công ty fintech thường có những khoản vay tiện lợi. |
Vì vậy, để thu được lợi nhuận cho các kỳ hạn ngắn và kinh doanh hiệu quả hơn, các đơn vị thường áp dụng lãi và chi phí cao hơn so với chi phí vận hành. Nếu khách hàng trả đúng hạn thì số tiền phải đóng sẽ không cao (theo tỷ lệ khoản vay có giá trị nhỏ), phù hợp với khả năng chi trả của người dân.
Trường hợp khách hàng chây ỳ trả nợ, kéo dài thời hạn vay qua nhiều tháng, nhiều năm thì phí phạt trễ hạn và lãi suất cộng dồn có thể lên tới hàng trăm phần trăm.
Kể cả các ngân hàng thương mại, lãi suất áp dụng khi khách hàng rút tiền mặt, vay tín chấp bằng thẻ tín dụng cũng rất lớn (chi phí, lãi này do các tổ chức thẻ quốc tế quy định). Theo đó, hiện phí rút tiền mặt qua thẻ tín dụng quốc tế (không có tài sản thế chấp) của các ngân hàng đang ở mức 4%, tương đương mức xấp xỉ 50%/năm. Lãi suất vay qua thẻ tín dụng cũng rất cao, từ 45-50%/năm.
Như vậy, nhìn vào đặc thù chi phí vận hành cao và mức độ rủi ro của loại hình cho vay tín chấp, thì việc đòi hỏi mức lãi suất cho vay của các công ty fintech tương đương với lãi suất ngân hàng thương mại là rất khó xảy ra. Đây cũng là một lý do khiến nhiều fintech phải cộng thêm một loạt chi phí như phí tư vấn, thẩm định hồ sơ, phí bảo hiểm khoản vay… để bù vào chi phí rủi ro và giữ mức lãi suất không vượt quá 20%/năm theo quy định pháp luật hiện hành.
Sớm hoàn thiện khung pháp lý cho fintech
Tại Anh, Cơ quan Giám sát tài chính Vương quốc Anh (FCA) quy định mức trần lãi suất cho các khoản vay theo ngày không vượt quá 0.8%/ ngày (tương đương 292%/năm), giới hạn mức lãi và phí người vay phải trả không vượt quá 100%, có nghĩa không cao hơn số tiền vay ban đầu.
Tại Mỹ, hầu hết các bang không chế về lãi suất, thay vào đó là dựa vào sự điều tiết của thị trường, phụ thuộc vào những yếu tố kinh tế và điều kiện tín dụng của cá nhân người vay. Do đó lãi suất của một số khoản vay có thể lên đến 600%. Ngoài ra, Đạo luật Trung thực trong cho vay (Truth in Lending Act) của Mỹ đã yêu cầu các công ty tài chính cung cấp thông tin về lãi suất, các khoản phí, điều kiện cho vay một cách đầy đủ và minh bạch.
Việt Nam cần nghiên cứu bài học kinh nghiệm của các quốc gia khác để sớm ban hành sandbox về fintech. (Ảnh minh họa) |
Trên thế giới có rất nhiều quốc gia đã hoàn thiện hành lang pháp lý để điều chỉnh thị trường fintech. Trong đó, quy định rõ về các mức lãi suất tối đa, đặt ra các yêu cầu nghiêm ngặt về điều kiện tham gia thị trường.
Tại Việt Nam, các công ty fintech cho vay hiện nay vẫn trong cảnh “vàng thau lẫn lộn”. Người dân đang đánh đồng các fintech cho vay được cấp phép với một số ứng dụng cho vay tín dụng đen. Trong khi dự thảo khung pháp lý thử nghiệm về fintech (sandbox) của Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa được ban hành khiến cả bên vay và bên cho vay phải đối mặt với rủi ro cao.
Theo nhiều chuyên gia, Việt Nam cần nghiên cứu bài học kinh nghiệm của các quốc gia khác để sớm ban hành sandbox về fintech. Bởi nhu cầu xã hội với những khoản vay tài chính nhỏ ngày càng lớn.
Việt Nam sở hữu lượng lớn dân số trẻ, tỷ lệ lớn dân số dùng điện thoại thông minh, internet phủ rộng toàn quốc, giá trị giao dịch trên thị trường fintech tăng nhanh… Việt Nam đang là thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp fintech hợp pháp và sẽ phát triển mạnh mẽ nếu sớm có hành lang pháp lý hoàn thiện./.