VUSTA: Đẩy mạnh chọn tạo giống trong nước, ứng dụng công nghệ trong sản xuất cây rau và hoa tại Hà Nội
Hội thảo nhằm mục đích tăng cường kết nối, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất, qua đó nâng cao kiến thức, năng lực thực hành cho hội viên, doanh nghiệp và nông dân tại khu vực Hà Nội.

Ứng dụng công nghệ rau và hoa góp phần tăng năng suất, nâng cao chất lượng nông sản
Phát biểu tại hội thảo, Thạc sỹ Lê Thanh Tùng, Trưởng ban Phổ biến kiến thức (Liên hiệp hội) cho biết, thời gian qua, Liên hiệp Hội đã phối hợp chặt chẽ với các hội thành viên tổ chức nhiều hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất cây giống, cây cảnh và rau, hoa. Theo Thạc sỹ Lê Thanh Tùng, việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất rau và hoa không chỉ góp phần tăng năng suất, nâng cao chất lượng nông sản mà còn là cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ, cải thiện thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp.
Đây được xem là một trong những hoạt động thiết thực nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp tuần hoàn và hướng tới phát triển bền vững. Thạc sỹ Lê Thanh Tùng cho rằng, chỉ khi có sự phối hợp hiệu quả giữa ba nhà (khoa học, doanh nghiệp và nhà nước) thì các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới thực sự đi vào cuộc sống và mang lại giá trị thực tiễn.
Giáo sư, Viện sỹ Trần Đình Long, Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam cho biết, Việt Nam có tiềm năng lớn trong lĩnh vực rau, hoa, quả. Tuy nhiên, hiện nay trên 80% giống rau được sử dụng trong nước vẫn phụ thuộc nhập khẩu. Để giảm lệ thuộc và chủ động hơn trong sản xuất, Giáo sư Trần Đình Long đề xuất đẩy mạnh chọn tạo giống trong nước, nhất là các giống có khả năng chống chịu sâu bệnh, thích nghi điều kiện và phù hợp với công nghiệp chế biến...

Giáo sư, Tiến sỹ Trần Khắc Thi cho rằng, nhu cầu tiêu thụ rau xanh ngày càng tăng kéo theo yêu cầu về chất lượng giống ngày càng cao. Hiện nay hơn 80% giống rau tại Việt Nam vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu, chủ yếu là giống lai F1. Nguyên nhân là do đặc điểm sinh học phức tạp của nhiều loại rau, đặc biệt là các giống có nguồn gốc ôn đới khó ra hoa trong điều kiện khí hậu Việt Nam. Để khắc phục tình trạng này, Giáo sư Trần Khắc Thi đề xuất cần tập trung nghiên cứu chọn tạo giống cho các nhóm cây thuộc họ Cà, họ Bầu bí và họ Đậu đỗ, cũng như phục tráng, cải tiến giống các loại rau bản địa và rau có giá trị dược liệu. Ngoài ra, các hướng nghiên cứu ưu tiên tạo dòng đơn tính cái, giống phục vụ chế biến công nghiệp và chọn tạo giống chống chịu sâu bệnh, phù hợp với điều kiện khí hậu và yêu cầu canh tác an toàn, bền vững...
Đa dạng di truyền nguồn gen bí đỏ
Theo ThS. Nguyễn Thị Tâm Phúc, Trung tâm Tài nguyên thực vật, bí đỏ là một cây rau phổ biến trên thế giới, có vai trò kinh tế quan trọng, có giá trị sử dụng cao và thích nghi được với nhiều vùng khí hậu khác nhau trong đó có Việt Nam.
Bí đỏ có giá trị dinh dưỡng cao cả trong quả, hạt, lá non và ngọn, được coi là nguồn cung cấp vitamin A và vitamin C tự nhiên cho con người thông qua các bữa ăn hàng ngày. Theo Đông y, bí đỏ tốt cho mắt và não bộ, trị suy nhược thần kinh, giúp tiêu hoá tốt. Đây cũng là thực phẩm dùng cho bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường, tim mạch và huyết áp, trẻ em chậm phát triển về trí óc.
Cây bí đỏ có khả năng thích ứng rộng, sinh trưởng phát triển tốt trong nhiều điều kiện sinh thái, khí hậu khác nhau như vùng ôn đới, cận nhiệt đới và nhiệt đới, có thể trồng ở vùng đồng bằng cho đến cao nguyên có độ cao 2000 m, thích hợp với một loạt môi trường nông nghiệp từ đầu tư thấp như vườn gia đình đến đầu tư cao như vùng chuyên canh, vì thế nó có thể là một trong những cây rau chiếm vị trí quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp.
Hiện tại, ở nhiều quốc gia, phương pháp phân tích kiểu hình vẫn là chủ yếu và có giá trị lớn trong đánh giá đa dạng nguồn gen bầu bí. Phương pháp này tập trung vào các tính trạng nông học đặc trưng và sàng lọc đặc điểm hữu ích, sử dụng các đặc điểm hình thái ổn định di truyền cao để phân tích đa dạng thông qua cây sơ đồ phát sinh và hệ số tương đồng/khác biệt. Sự đa dạng kiểu hình lớn nhất được tìm thấy ở C. maxima, C. moschata, và C. pepo, thể hiện qua hình dạng, kích thước, màu sắc quả và hình thái hạt.
Bên cạnh phương pháp truyền thống, chỉ thị phân tử như isozyme và các loại chỉ thị ADN (RAPD, RFLPs, SSRs, AFLPs) ngày càng được sử dụng rộng rãi để mô tả nguồn gen, nghiên cứu mối quan hệ phát sinh ở các cấp độ khác nhau. Mặc dù isozyme có hạn chế về số lượng và biểu hiện theo giai đoạn, chúng vẫn cho thấy sự phù hợp với phân tích hình thái trong các mối quan hệ giữa các loài Cucurbita. Chỉ thị ADN mang lại thông tin chi tiết hơn về đa dạng di truyền, đặc biệt hữu ích trong việc thiết lập quan hệ di truyền giữa các giống và loài. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng việc kết hợp cả hai phương pháp hình thái và phân tử là cần thiết để có cái nhìn đầy đủ nhất về đa dạng di truyền, từ đó hỗ trợ hiệu quả cho công tác chọn tạo giống mới với các tính trạng mong muốn như năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu.
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi cộng đồng dân tộc đều có bộ giống cây trồng riêng để làm vật liệu sản xuất phục vụ cuộc sống. Như vậy với sự đa dạng về các dân tộc sinh sống trong mỗi vùng khác nhau, có thế mạnh canh tác các loại cây trồng khác nhau cùng với những nét đặc trưng về văn hoá tín ngưỡng, ẩm thực cũng đã góp phần tạo nên đa dạng nguồn gen cây trồng nông nghiệp nói chung và cây bí đỏ nói riêng.
Tiếp tục tạo đột phá trong phát triển ngành lan
GS.TSKH Trần Duy Quý, Chủ tịch Hiệp hội Sản xuất, kinh doanh hoa lan Việt Nam thông tin, nước ta nằm trong số 16 quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao nhất thế giới, với hơn 1.234 loài lan thuộc 154 chi. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hoa lan hiện chỉ đạt 10-15 triệu USD/năm, chủ yếu dưới dạng cắt cành, còn diện tích trồng lan mới chiếm 10% tổng diện tích hoa.

Lý do chính là thiếu hạ tầng, chi phí đầu tư cao, công nghệ sau thu hoạch còn hạn chế và đặc biệt là chưa có chính sách hỗ trợ phát triển ngành lan một cách bài bản. GS Trần Duy Quý đề xuất: Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ vốn, kỹ thuật, khuyến khích nông dân chuyển đổi cây trồng thu nhập thấp sang trồng hoa lan; đồng thời thúc đẩy quảng bá thương hiệu lan Việt ra thị trường quốc tế thông qua hợp tác công - tư.
Nhiều ý kiến thống nhất rằng, để việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất rau-hoa chất lượng cao, bền vững đạt hiệu quả, tạo ra những sản phẩm bảo đảm an toàn thực phẩm đến người tiêu dùng, cần đẩy mạnh mô hình liên kết “ba nhà”: Nhà khoa học-nhà doanh nghiệp-nhà nông.
Cùng với đó, cần xây dựng hệ thống kiểm định giống chặt chẽ, quy hoạch vùng sản xuất giống tập trung, và truyền thông nâng cao nhận thức xã hội về giá trị giống nội địa.
Tại hội thảo, các đại biểu đề cập đến nhu cầu cấp thiết phải giảm phụ thuộc vào giống nhập khẩu thông qua đẩy mạnh nghiên cứu, chọn tạo giống rau, hoa, quả trong nước. Nhiều ý kiến đề xuất ưu tiên các giống có khả năng chống chịu sâu bệnh, phù hợp với biến đổi khí hậu và đáp ứng yêu cầu chế biến. Bên cạnh đó, các đại biểu nhấn mạnh việc đầu tư công nghệ sau thu hoạch, hoàn thiện quy trình bảo quản hạt giống và xây dựng thương hiệu giống Việt Nam là những hướng đi cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững./.
- VUSTA: Tạo đột phá trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
- VUSTA: Vai trò đội ngũ trí thức trong thực hiện hiệu quả Nghị quyết 57-NQ/TW