Cơ sở dữ liệu quốc gia giúp tiết kiệm cho xã hội hàng nghìn tỷ đồng
Chuyển đổi số là chìa khoá phát triển kinh tế tri thức, chuyển đổi xanh Vai trò tiên phong của các doanh nghiệp công nghệ số |
Năm 2023 đã được Thủ tướng Chính phủ - Chủ tịch của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số xác định là Năm Dữ liệu số quốc gia để thúc đẩy phát triển dữ liệu, tận dụng hiệu quả sự bùng nổ dữ liệu trên các nền tảng số Việt Nam. Theo đó, năm 2023 với chủ đề "Năm dữ liệu số quốc gia" nhằm giúp khai thác dữ liệu số, đồng thời tạo ra các giá trị mới.
Đặc biệt, tập trung cụ thể vào các nội dung: Phát triển dữ liệu mở; phát triển cơ sở dữ liệu; phát triển, thúc đẩy sử dụng các nền tảng số sử dụng thống nhất trên toàn quốc hoặc trong phạm vi mỗi địa phương; nâng cao năng lực quản trị dữ liệu, an toàn, bảo mật dữ liệu.
Toàn cảnh Hội nghị Tổng kết năm quốc gia về dữ liệu số |
Tại Hội nghị, ông Nguyễn Phú Tiến, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ TT&TT cho biết, dữ liệu không thể xây dựng ngay mà cần tích lũy, làm giàu theo thời gian. Năm 2023 - Năm Dữ liệu số quốc gia cần được hiểu là sự khởi đầu cho quá trình phát triển dữ liệu với bước đầu tiên là "ươm mầm" dữ liệu. Tuy vậy, năm 2023 chúng ta cũng đã đạt được một số "hoa, nụ, quả bói", tạo niềm tin về những vụ mùa bội thu tiếp theo. Bộ TT&TT mong đợi những năm tiếp theo, khi chúng ta liên tục chăm sóc để dữ liệu lớn lên thật nhanh và "nở hoa, kết quả".
Cũng theo ông Nguyễn Phú Tiến, thực hiện nhiệm vụ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ TT&TT đã "cầm nhịp" Năm Dữ liệu số quốc gia, hướng đến tạo ra sự thay đổi căn bản, tạo những tiền đề cơ bản cho sự phát triển về dữ liệu của Việt Nam giai đoạn tiếp theo.
Ông Nguyễn Phú Tiến, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số quốc gia phát biểu tại Hội nghị |
Cũng tại hội nghị, ông Trần Quốc Tuấn, đại diện Cục Chuyển đổi số quốc gia, cho biết về những kết quả nổi bật của cơ sở dữ liệu quốc gia. Theo đó, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư kết nối với 15 bộ, ngành; 63/63 địa phương; 4 doanh nghiệp; tiếp nhận khoảng 1,35 tỷ yêu cầu để tra cứu, xác thực thông tin, đồng bộ thông tin công dân, giúp tiết kiệm chi phí, thời gian, giảm phiền hà cho người dân, doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính, giúp tiết kiệm cho xã hội hàng nghìn tỷ đồng.
Về cơ sở dữ liệu quốc gia đăng ký doanh nghiệp, tháng 12/2023, lưu 1.697.908 doanh nghiệp (khoảng 900 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động) và 203.966 đơn vị trực thuộc doanh nghiệp; lưu trữ thông tin đăng ký của khoảng 2,4 triệu hộ kinh doanh, trong đó: 260.844 hộ kinh doanh được chuẩn hóa dữ liệu, lưu trữ 30.046 hợp tác xã và đơn vị trực thuộc; Kết nối với 13 bộ, ngành và 63/63 địa phương với khoảng 41 triệu giao dịch. Cơ sở dữ liệu đã giúp rút ngắn thời gian khởi sự kinh doanh từ 8 thủ tục với 16 ngày xuống chỉ còn 3 thủ tục với 6 ngày.
Về cơ sở dữ liệu quốc gia bảo hiểm, tháng 12/2023, quản lý khoảng 32 triệu hộ gia đình tham gia bảo hiểm; 17,1 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội; 88,9 triệu người tham gia bảo hiểm y tế; đã xác thực hơn 93,7 triệu thông tin nhân khẩu trong cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, trong đó: khoảng 84,7 triệu người; Kết nối, chia sẻ dữ liệu với 9 bộ, ngành và một số kết nối, chia sẻ dữ liệu có phạm vi quốc gia. Việc đăng ký khám chữa bệnh bằng thẻ căn cước công dân gắn chip đã giúp giảm từ 10 phút đến vài giờ còn khoảng 10 giây.
Về cơ sở dữ liệu về hộ tịch điện tử toàn quốc, hoàn thành triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với hơn 50 nghìn người dùng. Tính đến tháng 11/2023, hệ thống đã có 48.042.352 dữ liệu đăng ký khai sinh, trong đó: 9.597.237 trẻ em được cấp Số định danh cá nhân theo quy định (có 5.340.151 trường hợp đăng ký khai sinh được chuyển sang các cơ quan bảo hiểm xã hội để cấp thẻ bảo hiểm y tế), 12.342.532 dữ liệu kết hôn, 10.533.628 dữ liệu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, 8.248.312 dữ liệu khai tử, 293.019 trường hợp nhận cha mẹ con, 20.579 trường hợp đăng ký giám hộ, 16.644 trường hợp đăng ký nhận nuôi con nuôi, 889.423 dữ liệu cải chính, thay đổi, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc.
Đối với cơ sở dữ liệu quốc gia đất đai, trung ương đã xây dựng và đưa vào quản lý, vận hành và khai thác sử dụng 4 khối dữ liệu đất đai do trung ương quản lý gồm: Cơ sở dữ liệu về thống kê, kiểm kê đất đai; Cơ sở dữ liệu về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Cơ sở dữ liệu về giá đất; Cơ sở dữ liệu về điều tra, đánh giá đất đai. Có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đang xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu đất đai. Cơ sở dữ liệu này giúp cung cấp số liệu chính xác, kiểm soát và quản lý các giao dịch về đất đai công khai, minh bạch.
Cơ sở dữ liệu quốc gia tài chính góp phần tăng hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý tài chính của Bộ Tài chính, Chính phủ, đảm bảo tính chính xác, kịp thời của công tác quản lý nguồn lực tài chính quốc gia thông qua việc sử dụng một nguồn thông tin, dữ liệu trung thực tin cậy về dữ liệu tài chính công.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bô, công chức, viên chức giúp tiết kiệm thời gian trong việc tổng hợp, thống kê, báo cáo tổng hợp, phân tích đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, tổ chức bộ máy, biên chế, vị trí việc làm và các nội dung khác thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ.
Tại Hội nghị, các đơn vị lớn, có nhiều đóng góp trong việc kết nối chia sẻ dữ liệu; khai thác dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; phát triển hạ tầng dữ liệu số; số hóa dữ liệu như Viettel, VNPT... đã trình bày về chiến lược dữ liệu quốc gia, chia sẻ kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam về nội dung chiến lược như phân loại dữ liệu theo sở hữu (công, doanh nghiệp, cá nhân); cơ chế khai thác, sử dụng; phát triển thị trường dữ liệu; Hạ tầng dữ liệu quốc gia: Tình hình triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm./.
HƯƠNG LAN