Tọa đàm "Tài chính vi mô: Cơ hội vươn lên cho người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ" LIVE
Tọa đàm Tài chính vi mô: Cơ hội vươn lên cho người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ nhằm tạo ra một diễn đàn mở để các bên cùng chia sẻ, thảo luận về các chính sách thiết yếu nhằm thúc đẩy thị trường tài chính vi mô phát triển mạnh mẽ, phù hợp với Chiến lược phát triển tài chính toàn diện Quốc gia và những điều chỉnh mới trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi, tháng 1/2024). Đồng thời, buổi tọa đàm cũng tập trung làm rõ những thách thức trong quản lý và vận hành của các chương trình, tổ chức tài chính vi mô hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp cải thiện dựa trên nền tảng pháp lý của các nghị định, quyết định và thông tư hiện hành.
Tham dự chương trình, về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có: Đại diện các Vụ và các Cục; Đại diện Viện Chiến lược Ngân hàng.
Về phía khách mời có: Ông Ambrosio Barros - Trưởng đại diện văn phòng Đa quốc gia khu vực Mekong, Giám đốc Quốc gia IFAD Việt Nam, Lào, Myanmar, Thái Lan.
Về phía diễn giả và chuyên gia có: GS.TS Đào Văn Hùng - Nguyên Giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; PGS. TS Lê Văn Luyện - Nguyên Phó Giám đốc Học viện Ngân hàng; Thành viên Hội đồng Học viện Ngân hàng nhiệm kỳ 2020-2025; TS. Phạm Minh Tú - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; TS. Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương; Nguyên Phó vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; TS. Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia kinh tế; Nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội; ông Hoàng Văn Thành - Bí Thư Đảng ủy Bộ phận Tổ chức tài chính vi mô CEP, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổ chức tài chính vi mô CEP; ông Vũ Quốc Bình - Luật sư - Phó Chủ tịch HĐQL Quỹ VietED - Chương trình tài chính vi mô VietED; bà Trần Thuý Linh - Giám đốc Chương trình tài chính vi mô VisionFund Việt Nam, trực thuộc Tổ chức World Vision International.
Đại diện các tổ chức Tài chính vi mô gồm: Tổ chức tài chính vi mô CEP; Tổ chức tài chính vi mô Tình thương, Tổ chức tài chính vi mô M7, Tổ chức tài chính vi mô Thanh Hóa. Đại diện 69 Chương trình TCVM
Đại diện các bộ, ban ngành và cơ quan liên quan: Đại diện Hội phụ nữ
Các bên quan tâm khác bao gồm: Các tổ chức quốc tế, các chuyên gia và các cá nhân quan tâm khác.
Về phía đơn vị chỉ đạo: Ông Nguyễn Quốc Hải - Viện trưởng Viện Đào tạo, Tư vấn và Phát triển kinh tế (IDE)
Về phía đơn vị tổ chức: Bà Đinh Thị Ánh Tuyết - Chủ tịch VietED Group; Nhà báo Bùi Văn Khương - Tổng biên tập Tạp chí điện tử kinh doanh và phát triển. Cùng sự hiện diện của các cơ quan báo chí, truyền thông.
Trực tiếp toạ đàm
11:00 THẢO LUẬN TS. Nguyễn Minh Phong điều phối hiên thảo luận chung: “Ở góc độ cá nhân, tôi thấy các chuyên gia đã trình bày tham luận với rất nhiều thông tin tâm huyết, sát sườn. Tiếp nối tinh thần ấy, ở phần thảo luận chung, chúng ta sẽ thảo luận tập trung vào những khó khăn và cách tháo gỡ. Phần I: Chia sẻ về thành tựu và thách thức đối với các Quỹ và Dự án TCVM với Đại diện từ các Quỹ Phát triển Phụ nữ thuộc Hội Phụ nữ các tỉnh: Trước hết, kính mời bà Triệu Thị Linh đại diện tỉnh Bắc Kạn cho ý kiến. Bà Triệu Thị Linh (Bắc Kạn) phát biểu: “Kính thưa các diễn giả và quý vị đại biểu, tôi vinh dự được tham gia phát biểu thảo luận. Tôi xin mạo muội đưa ra một số ý kiến như sau. Bắc Kạn thành lập năm 2014, hiện đã trải qua 10 năm thành lập và trưởng thành, đã hỗ trợ được nhiều hội viên nghèo, hộ gia đình thoát nghèo. Năm 2020, dự nợ 86 tỷ đồng, gần 7000 thành viên. Đó là thành công lớn nhất. Bên cạnh đó, chúng tôi gặp nhiều khó khăn, theo tôi đó không chỉ là khó khăn riêng của Bác Kạn mà còn là khó khăn chung của nhiều địa phương khác. Hiện chúng tôi chỉ được duy trì 49,9 tỷ đồng, mặc dù đc IFAD tài trợ quy mô lớn hơn con số đó. Chúng tôi đã làm hồ sơ chuyển đổi nhưng ngân hàng báo nộp chậm, nên giảm quy mô từ 86 tỷ đồng xuống 49,9 tỷ đồng. Chúng tôi có làm hồ sơ cấp phép với Ngân hàng Nhà nước để thành lập thêm dự án tổ chức tài chính vi mô. khi chúng tôi cảm thấy có thể đáp ứng được con người và nguồn vốn nhưng bị giảm quy mô xuống, thành viên và dư nợ giảm theo. Nguồn vốn còn, nhu cầu của hội viên lớn nhưng ko thể giải ngân. Chúng ta đã làm làm đơn để xin lập thêm dự án tài chính vi mô nhưng theo luật, các tổ chức hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh (không phải Việt Nam) nên không thể thực hiện được, Tôi có 2 đề xuất trong dự thảo nghị định thay thế nghị định 20, tôi đề xuất xem xét đối tượng tài chính vi mô. “Thu nhập thấp” hiện chưa có văn bản xác định, chưa quy định, chưa có chuẩn theo Ngân hàng Nhà nước quy định. Do đó tôi rất mong muốn Ngân hàng Nhà nước sớm trình Thủ tướng Chính phủ nghị định mới thay đổi nghị định 20, trong đó có quy định này để tháo gỡ khó khăn cho các tổ chức tài chính vi mô. |
10:50 Bà Trần Thuý Linh, Giám đốc Chương trình TCVM VisionFund Việt Nam, trực thuộc tổ chức World Vision International trình bày tham luận: Khó khăn và Thách thức khi thành lập TC-TCVM Tài chính vi mô (TCVM) là một công cụ mạnh mẽ, có đóng góp to lớn giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là những hộ nghèo, thu nhập thấp và các cộng đồng dân cư có hoàn cảnh khó khăn. TCVM không chỉ giúp tăng thu nhập mà còn góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống của khách hàng. Theo thống kê từ Chương trình Tài chính Vi mô của World Vision International (WVI), 88,9% khách hàng đã báo cáo rằng thu nhập của họ tăng lên nhờ các khoản vay trước đó. Chương trình này đã cải thiện mức sống của các hộ nghèo, với một tỷ lệ lớn khách hàng (27,4%) đánh giá cuộc sống của họ ở mức từ 8 – 10, cho thấy tác động tích cực mà TCVM mang lại. Các quy định hiện hành hạn chế sự phát triển của TCVM Tuy nhiên, để có thể mở rộng quy mô và gia tăng tác động của các chương trình tài chính vi mô, việc huy động vốn bền vững và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành là một thách thức lớn. Các quy định hiện hành về quyền sở hữu đối với các tổ chức tài chính vi mô, đặc biệt là yêu cầu tổ chức chính trị - xã hội phải tham gia làm chủ sở hữu, đang trở thành rào cản đáng kể đối với sự phát triển của ngành. Theo quy định hiện hành, các tổ chức TCVM phải có ít nhất một tổ chức chính trị - xã hội tham gia làm chủ sở hữu, điều này không chỉ hạn chế sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ mà còn làm giảm khả năng thu hút các nhà đầu tư và tổ chức tài chính từ bên ngoài, bao gồm các tổ chức tài chính quốc tế hoặc các doanh nghiệp tư nhân có tiềm lực tài chính mạnh. Trong khi đó, nhu cầu về tài chính vi mô tại nhiều tỉnh thành vẫn rất lớn, và việc duy trì nguồn vốn chỉ từ các tổ chức phi chính phủ hoặc tài trợ không thể đáp ứng đủ nguồn lực để mở rộng quy mô hoạt động của các tổ chức TCVM. Hạn chế về nguồn vốn của chương trình tài chính vi mô Các chương trình tài chính vi mô hiện đang phụ thuộc vào nguồn vốn tài trợ không hoàn lại và các khoản vay từ các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, những nguồn vốn này không đủ để đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô và cải thiện chất lượng dịch vụ cho các đối tượng nghèo và dễ bị tổn thương. Hệ thống ngân hàng thương mại trong nước cũng chưa sẵn sàng cung cấp vốn vay không có tài sản đảm bảo, và các quy định về vay ngoại tệ cũng là một trở ngại lớn. Do đó, việc tìm kiếm các nguồn vốn bền vững thông qua việc thay đổi các quy định về quyền sở hữu và cấu trúc của các tổ chức tài chính vi mô là hết sức cần thiết. Một trong những lựa chọn khả thi là chuyển đổi các chương trình tài chính vi mô thành các tổ chức tài chính vi mô được cấp phép (MFI) để có thể huy động vốn từ các nguồn tài chính đa dạng và ổn định hơn, đặc biệt là các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Kiến nghị điều chỉnh khi áp dụng quy định dự thảo nghị định thay thế QĐ 20/2017/QĐ-TTg Một trong những kiến nghị quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức tài chính vi mô là cần phải nới lỏng quy định về chủ sở hữu và thành viên sáng lập của MFI. Cụ thể: Xem xét bỏ “Tiết kiệm bắt buộc chỉ được thực hiện đối với khách hàng tài chính vi mô đang có khoản vay”. Việc bắt buộc đang có khoản vay sẽ là rào cản cho việc xây dựng thói quen tiết kiệm, là một lợi ích chính TCVM mang lại cho khách hàng, hạn chế cơ hội tiếp cận với dịch vụ tiết kiệm của nhóm đối tượng khách hàng TCVM, tăng áp lực công việc và chi phí quản lý cho Chương trình/ Dự án Bổ sung cơ chế làm việc giữa UBND và Tổ chức có chương trình, dự án TCVM - Nên có cơ chế làm việc giữa UBND và Tổ chức có Chương trình - Dự án TCVM để thống nhất nhận định đánh giá về chương trình trước khi ra các quyết định. - Cần tạo điều kiện cho phép các Chương trình/dự án TCVM được chuyển nguồn vốn sang một địa phương khác khi nhu cầu tại địa phương đang triển khai không còn nhu cầu nữa hoặc đã đạt đến tiêu chí đóng CT/DA TCVM do tổ chức phi chính phủ thực hiện Đưa vào điều 5. “Cấp Giấy đăng ký hoạt động chương trình, dự án tài chính vi mô”, cơ quan NHNN đủ điều kiện, năng lực chuyên môn để xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan. Sự chấp thuận của UBND về hoạt động các CTTCVM trên địa bàn là sự chấp thuận về chủ trương phù hợp với điều kiện KT-XH, nhu cầu của địa phương, cần những điều kiện sâu về chuyên môn thì cần đưa vào điều kiện cấp giấy đăng ký hoat động và được xem xét bởi Ngân hàng Nhà nước Đề nghị khi thay đổi 1) số vốn thực hiện TCVM và 2) người quản lý, điều hành chương trình, dự án tài chính vi mô thì tổ chức thông báo (chứ không cần xin phép chấp thuận) bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân có thẩm quyền nơi triển khai thực hiện chương trình, dự án tài chính vi mô. Hiện tại khi thay đổi vốn thực hiện TCVM, các chương trình dự án báo cáo tới NHNN. Việc cần được sự chấp thuận mới được thay đổi, dẫn đến chậm trễ trong hoạt động Trường hợp quy trình Ủy ban nhân dân có thẩm quyền chấp thuận người điều hành, quản lý mới bị kéo dài hơn dự tính sẽ dẫn đến những khó khăn cho Chương trình, dự án tài chính vi mô và người lao động Xem xét vấn đề cập rõ như quy định tại khoản 3 Điều 13 tại Quyết định 20/2017/QĐ-TTg Ghi rõ mục: c) Đại lý cung cấp các sản phẩm bảo hiểm đối với khách hàng tài chính vi mô theo quy định của pháp luật Sản phẩm Bảo hiểm vi mô là cần thiết và hỗ trợ tốt cho khách hàng TCVM, để bảo vệ khách hàng trước các rủi ro. Nên ghi rõ hoạt động đại lý bảo hiểm, để tạo điều kiện thuận lợi cho các chương trình/ dự án TCVM hợp tác với các công ty bảo hiểm Đề nghị làm rõ nguồn vốn theo Điều 15.1 mà tổ chức phi chính phủ nước ngoài sử dụng để thực hiện hoạt động cho vay tài chính vi mô (theo Điều 15.4) có được coi là thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 80 không? Nguồn vốn theo Điều 15.1 mà tổ chức phi chính phủ nước ngoài sử dụng cho hoạt động cho vay tài chính vi mô (theo Điều 15.4) là vốn quay vòng, người hưởng lợi/khách hàng tài chính vi mô có hoàn trả lại cho tổ chức nên chưa phải là viện trợ không hoàn lại từ tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Bổ sung tổ chức nước ngoài đáp ứng điều kiện: - Do yêu cầu bắt buộc chủ sở hữu/thành viên sáng lập của TCTCVM phải là tổ chức chính trị- xã hội nên giới hạn các thành phần có thể tham gia góp vốn ; chưa có quy định cho phép các TCTCVM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần nên chưa kêu gọi được đa dạng các nhà đầu tư tham gia tạo nguồn vốn cho hoạt động - Chưa huy động nguồn lực từ các tổ chức TCVM đang hoạt động uy tín trên thế giới Bỏ yêu cầu 1 thành viên là tổ chức chính trị - xã hội: "Tổ chức chính trị - xã hội theo quy định tại Hiến pháp và các quy định của pháp luật có liên quan bao gồm Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam tại các cấp Trung ương, tỉnh, thành phố, quận, huyện. Hiện tại Liên đoàn Lao động và Hội liên hiệp phụ nữ đã thành lập Tổ chức TCVM, các đơn vị còn lại ít quan tâm tới hoạt động TCVM, giới hạn thành viên góp vốn, dẫn đến hầu như không có cơ hội để thành lập tổ chức TCVM mới" Quy định yêu cầu ít nhất một thành viên sáng lập của tổ chức TCVM phải là tổ chức chính trị - xã hội đang hạn chế việc tham gia của các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế, điều này khiến các tổ chức TCVM không thể huy động đủ nguồn vốn cho hoạt động. Việc loại bỏ yêu cầu này sẽ mở ra cơ hội cho các tổ chức tài chính vi mô có thể hợp tác với nhiều nguồn tài chính khác nhau, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các quỹ đầu tư xã hội và các nhà đầu tư quốc tế. Tóm lại, việc nới lỏng các hạn chế về quyền sở hữu đối với các tổ chức tài chính vi mô sẽ giúp ngành tài chính vi mô phát triển mạnh mẽ hơn, mở ra cơ hội tiếp cận các nguồn vốn bền vững và đa dạng. Điều này không chỉ giúp các tổ chức TCVM mở rộng quy mô hoạt động mà còn giúp nâng cao hiệu quả của các chương trình hỗ trợ cộng đồng, đặc biệt là đối với các hộ nghèo và những người thu nhập thấp. Thêm vào đó, việc cho phép các tổ chức TCVM hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế sẽ giúp cải thiện chất lượng dịch vụ, tăng cường quản lý rủi ro và cải thiện khả năng tài chính của các tổ chức, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành tài chính vi mô. |
10:20 Ông Hoàng Văn Thành, Bí Thư Đảng ủy Bộ phận Tổ chức TCVM CEP, Chủ tịch Hội đồng thành viên tổ chức TCVM CEP trình bày tham luận: Khó khăn và Thách thức khi triển khai Thông tư 33/2024-NHNN đối với TC-TCVM Với sự ra đời của Thông tư 33/2024/TT-NHNN (có hiệu lực từ ngày 1/7/2024), các quy định về hoạt động của TCVM đã được hoàn thiện, nhằm thúc đẩy sự phát triển ổn định và lành mạnh của các tổ chức này. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Thông tư 33, Tổ chức Tài chính Vi mô CEP (thuộc Liên đoàn Lao động Việt Nam) đang gặp phải một số thách thức đáng kể trong việc thực hiện các quy định mới. 1. Nhiều khách hàng, đặc biệt là công nhân tại các khu chế xuất, khu công nghiệp không thể tiếp cận nguồn vốn CEP do vướng quy định về mức thu nhập thấp Trước khi Thông tư 33 ra đời, không có quy định cụ thể về mức thu nhập tối thiểu để được vay vốn tại các TCVM. Trong 33 năm hoạt động, CEP tập trung vào việc cung cấp tín dụng cho công nhân và đoàn viên công đoàn, với mục tiêu hỗ trợ cải thiện điều kiện sống và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên, theo điểm a, b, Khoản 4, Điều 3 Thông tư 33 quy định khách hàng cá nhân muốn vay vốn CEP phải thỏa các điều kiện: Là cá nhân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo; hoặc cá nhân có thu nhập thấp: (i) bình quân tối đa 09 triệu đồng/tháng tại thành thị; (ii) thu nhập bình quân tối đa 07 triệu đồng/tháng tại nông thôn; (iii) Người lao động tự do làm việc không trên cơ sở thuê mướn theo thỏa thuận lao động có mức thu nhập tương ứng mức thu nhập bình quân của đối tượng khách hàng quy định tại điểm (i) và (ii). Với quy định này, sẽ có hơn 147.000 công nhân, người lao động đang vay vốn CEP (42% tổng số khách hàng) có mức thu nhập từ 9 triệu đồng/tháng trở lên, trong đó phần lớn là công nhân nhập cư, làm việc trực tiếp tại các khu chế xuất, khu công nghiệp, tương ứng với dư nợ cho vay 2.928 tỷ đồng (chiếm 52% tổng dư nợ cho vay). Bên cạnh đó, với quy định khách hàng tài chính vi mô phải là “người lao động theo hợp đồng lao động”, CEP sẽ phải ngừng phục vụ cho tất cả đoàn viên công đoàn là công chức, viên chức, lực lượng vũ trang (hiện CEP đang phục vụ gần 32.000 công chức, viên chức, lực lượng vũ trang với dư nợ cho vay 655 tỷ đồng). Điều này sẽ làm giảm phạm vi phục vụ của CEP đối với những đối tượng công nhân đang gặp khó khăn. 2. CEP gặp khó khăn trong xác định khu vực đô thị, nông thôn: Điểm b(i), b(ii) và c khoản 4 Điều 3 Thông tư 33 quy định đối với khách hàng tài chính vi mô là người lao động ở “khu vực đô thị”, “khu vực nông thôn”. (i) Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động ở khu vực đô thị có mức thu nhập bình quân tối đa 09 triệu đồng/tháng tại thời điểm đề nghị vay vốn; (ii) Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân tối đa 07 triệu đồng/tháng tại thời điểm đề nghị vay vốn; Tuy nhiên, CEP gặp khó khăn trong việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để xác định “khu vực đô thị”, “khu vực nông thôn”. Có nhiều nghị định phân chia “khu vực đô thị”, “khu vực nông thôn” không thống nhất và chưa có quy chuẩn cụ thể. Vì vậy, các công nhân tại khu vực đô thị như Hóc Môn, Bình Chánh, Củ Chi không thể vay vốn vì thu nhập của họ thường trên 7 triệu đồng/tháng, trong khi Thông tư quy định mức thu nhập tối đa cho khách hàng vay tại khu vực nông thôn là 7 triệu đồng/tháng. Việc phân chia không rõ ràng giữa khu vực đô thị và nông thôn khiến nhiều công nhân ở các khu công nghiệp không thể tiếp cận nguồn vốn, mặc dù thu nhập của họ chỉ vừa đủ đáp ứng điều kiện vay vốn. 3. Khách hàng CEP khó tiếp cận nguồn vốn uy tín từ CEP do không đáp ứng thủ tục vay vốn, tăng khả năng người nghèo phải tiếp cận “tín dụng đen”: Khoản 6, Điều 24 Thông tư 33 quy định hộ gia đình có thu nhập thấp chỉ được vay vốn khi thỏa đầy đủ các điều kiện: (i) Phải có người đại diện của hộ gia đình được các thành viên của hộ gia đình ủy quyền đại diện bằng văn bản theo quy định pháp luật để đứng tên vay vốn; (ii) Phải vay thông qua Tổ vay vốn (một tổ vay vốn tối thiểu là 05 tổ viên và tối đa là 60 tổ viên, cư trú hợp pháp theo địa bàn dân cư thuộc đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn); (iii) Phải có phê duyệt hoặc giới thiệu của tổ chức chính trị - xã hội, chính quyền địa phương các cấp. Tuy nhiên, nhiều công nhân nhập cư không thể đáp ứng yêu cầu về giấy ủy quyền, khiến họ có nguy cơ phải vay từ "tín dụng đen" với lãi suất cao. Trong TCVM, người nghèo mong muốn thủ tục càng đơn giản càng tốt. CEP gặp khó khăn khi áp dụng quy định về tổ vay vốn đối với công nhân lao động, đặc biệt là khi các phường xã từ chối phê duyệt hoặc giới thiệu khách hàng vay vốn cho CEP. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến công nhân và thách thức hoạt động của CEP, làm giảm khả năng thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức Công đoàn. Tháo bỏ được chính sách thông thoáng, thủ tục dễ dàng cho người nghèo tiếp cận là cơ hội để TCVM phát triển. Chính vì vậy, CEP mong muốn Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển tài chính vi mô tại Việt Nam. |
09:55 PGS.TS Lê Văn Luyện - Nguyên Phó Giám đốc Học viện Ngân hàng, Thành viên Hội đồng HVNH nhiệm kỳ 2020-2025 trình bày tham luận: “Tài chính vi mô giúp giảm nghèo và phát triển kinh tế bền vững” Mỗi người sinh ra và lớn lên trong những hoàn cảnh gia đình khác nhau, có người xuất phát từ nền tảng gia đình khá giả, được học hành đầy đủ, trong khi có những người không có điều kiện như vậy. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh thế nào, cha mẹ luôn hy sinh để mang lại điều tốt nhất cho con cái. Chúng ta không thể lựa chọn cha mẹ nhưng có quyền chọn lựa cuộc sống của chính mình. Thành công không chỉ phụ thuộc vào gia đình mà còn vào mục tiêu, sự kiên trì và khả năng tận dụng cơ hội. Nhiều tỷ phú, triệu phú xuất phát từ số 0, tự tạo dựng tài sản cho mình. Để phát triển, mỗi người cần đặt ra mục tiêu rõ ràng và kiên trì theo đuổi, từ ngắn hạn đến dài hạn. Họ cũng cần tận dụng sự giúp đỡ từ các tổ chức tài chính vi mô, đòn bẩy tài chính và trí tuệ để thoát nghèo và phát triển kinh tế bền vững. Các chương trình tài chính vi mô không chỉ hỗ trợ người nghèo bằng cách cung cấp tiền mà còn dạy họ cách sử dụng tiền và cách làm kinh tế, từ đó tự cải thiện cuộc sống. Chúng ta không nên chỉ nhìn vào kết quả trước mắt, mà cần chú ý đến cách thức, công cụ làm ra kết quả bền vững, giống như việc có cái cần câu thay vì chỉ câu cá. Các tổ chức tài chính vi mô giúp người nghèo không chỉ bằng tiền mà còn giúp họ phát triển kinh tế thông qua việc hỗ trợ kỹ năng, tạo mối quan hệ với doanh nghiệp, đưa sản phẩm ra thị trường, thậm chí xuất khẩu. VietED là một ví dụ điển hình, giúp người nghèo làm kinh tế bền vững và đóng góp vào phát triển đất nước. Ngoài ra, việc xây dựng tài sản và tạo thu nhập thụ động rất quan trọng để đảm bảo sự ổn định trong tương lai. Đặc biệt, đối với những người còn nghèo, họ càng cần phải học cách làm kinh tế và giáo dục con cái về cách thức tạo dựng tài sản lâu dài, thay vì chỉ chạy đua theo nhu cầu trước mắt. Các chương trình tài chính vi mô giúp họ học hỏi và áp dụng những bài học thực tế để thay đổi cuộc sống. Phụ nữ, đặc biệt là ở các gia đình nghèo, thường là người chịu nhiều thiệt thòi, vừa phải làm việc ngoài xã hội, vừa phải lo toan công việc gia đình. Trong những hoàn cảnh khó khăn, họ thường nhường cơm, sẻ áo cho chồng con, hi sinh bản thân để mang lại điều tốt nhất cho gia đình. Tuy nhiên, họ cũng cần được trang bị các kỹ năng làm kinh tế để vươn lên, giúp gia đình thoát nghèo. Chương trình tài chính vi mô gắn với Hội Phụ nữ (Quỹ TYM) đã giúp đỡ phụ nữ rất hiệu quả, hỗ trợ tài chính và đào tạo họ làm kinh tế, nâng cao kiến thức và vị thế của phụ nữ trong xã hội. Trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư, mọi thay đổi đều tác động mạnh mẽ đến các ngành nghề và cuộc sống của người dân. Nhiều công việc thủ công đã bị máy móc thay thế, và xu hướng trả lương theo năng suất, KPI đang thay đổi cách thức làm việc. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, việc mất việc làm đang trở nên phổ biến, đặc biệt đối với những người không thích nghi với thay đổi. Tình trạng thất nghiệp và đói nghèo ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, nơi người dân khó tiếp cận giáo dục và cơ hội việc làm. Các tổ chức tài chính vi mô đóng vai trò quan trọng trong việc giúp người dân, đặc biệt là những hộ gia đình yếu thế, phát triển kinh tế bền vững. Chúng không chỉ cung cấp vốn mà còn giáo dục và hỗ trợ người dân khai thác tiềm năng của địa phương, tạo công ăn việc làm, giữ gìn môi trường và giảm di cư tự phát. Các chương trình tài chính vi mô còn giúp kết nối các sản phẩm từ các địa phương ra thị trường rộng lớn hơn, góp phần phát triển đất nước bền vững. Để các tổ chức tài chính vi mô có thể phát huy tác dụng tối đa, cần có một hành lang pháp lý hoàn thiện và đáng tin cậy. Sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành cần tiếp tục được đẩy mạnh, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao của Ngân hàng Nhà nước. Khi các quy định pháp lý được bổ sung và hoàn thiện, các tổ chức tài chính vi mô sẽ có điều kiện thuận lợi để tiếp cận các nguồn tài trợ trong và ngoài nước, giúp đỡ người dân vượt qua khó khăn và phát triển kinh tế bền vững. Tóm lại, để giảm nghèo và phát triển kinh tế bền vững, ngoài vấn đề vốn, người dân cần được trang bị kiến thức và kỹ năng làm kinh tế, biết cách sử dụng đòn bẩy tài chính, trí tuệ và thời gian để khai thác tiềm năng địa phương. |
09:40 TS. Phạm Minh Tú - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trình bày tham luận: “Tài chính vi mô trong chiến lược Tài chính toàn diện” Từ năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định về việc phê duyệt chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tài chính toàn diện theo định hướng thị trường, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Việc thúc đẩy tài chính toàn diện đi đôi với sự an toàn, hiệu quả và bền vững của hệ thống tài chính, bảo vệ người tiêu dùng tài chính. Trong đó, ứng dụng công nghệ hiện đại và đổi mới sáng tạo là thành tố quan trọng thúc đẩy tài chính toàn diện; cùng với đó, công tác an toàn bảo mật được chú trọng, các rủi ro liên quan đến quá trình cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính, nhất là những sản phẩm tài chính số được quản lý, giám sát đầy đủ. Trong bối cảnh lĩnh vực tài chính đang có xu hướng chuyển đổi mạnh mẽ thông qua công nghệ số để người dân dễ tiếp cận, quá trình chuyển đổi mang lại những cơ hội nhất định cho nước ta. Nếu nắm bắt được những cơ hội đó, Việt Nam có thể tăng tốc nhanh hơn đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, phát triển bền vững - mục tiêu xuyên suốt, quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Cụ thể, Chiến lược phát triển ngành ngân hàng và Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đã là kim chỉ nam, giúp thoát khỏi tình trạng “bị động”. Đây chính là kết quả thể hiện được tầm nhìn của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, nhu cầu về sản phẩm dịch vụ tài chính của người dân sinh sống ở nông thôn (chiếm khoảng 62% dân số nước ta) là tương đối lớn. Đó là dư địa cho các tổ chức tín dụng nhắm đến để tổ chức các dự án, chương trình về chủ đề tài chính. Khung khổ pháp lý đã và đang được nhanh chóng chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, chương trình, dự án tài chính phát triển để phục vụ tốt hơn các đối tượng trong mục tiêu của tài chính toàn diện. Những thách thức trong quá trình thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam như sau: Các tổ chức, chương trình, dự án vẫn còn tồn đọng nhiều hạn chế như năng lực vốn, tài sản yếu, mạng lưới mỏng, thiếu đa dạng trong phát triển và cung ứng sản phẩm dịch vụ; hạn chế trong ứng dụng công nghệ, số lượng nhân sự có đủ nghiệp vụ chuyên môn còn chưa nhiều… thách thức còn đến từ những bất cập từ cơ chế, chính sách ở thời điểm hiện tại. Chẳng hạn, tổ chức tín dụng vi mô vẫn chưa được phép mở tài khoản thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra, một bộ phận khách hàng vẫn chưa được trang bị smartphone (điện thoại thông minh) với nhiều lý do như tuổi tác, hoàn cảnh kinh tế, kỹ năng công nghệ… Đây cũng là thách thức đối với quá trình thúc đẩy tài chính. Trước những khó khăn đó, vị chuyên gia đã đóng góp một số đề xuất, kiến nghị cả về phía cơ quan quản lý và phía tổ chức, chương trình, dự án. Theo đó, các cơ quan quản lý cần có cơ chế, chính sách khuyến khích sự phát triển về số lượng các tổ chức tài chính vĩ mô. Ví dụ, có thể chuyển đổi từ chương trình, dự án tài chính vi mô lên thành tổ chức tài chính vi mô, từ đó gia tăng số lượng tổ chức. Ngoài ra, cần có các cơ chế, chính sách khuyến khíc sự phát triển, tăng cường năng lực, mở rộng hoạt động của các tổ chức, chương trình, dự án. Cụ thể, cần bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động của tổ chức, chương trình, dự án tài chính vi mô. Qua đó, nhằm tăng cường thêm nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay với lãi suất thấp (ưu đãi tín dụng, bảo lãnh tín dụng); khuyến khích các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp Fintech, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán… tham gia đầu tư, hợp tác với các tổ chức, chương trình, dự án tài chính vi mô để tạo dựng thị trường bán buôn vốn tài chính vi mô, đi kèm với đẩy mạnh hoạt động đại lý thanh toán. Đối với tổ chức, chương trình, dự án, cần tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ (bằng cách đào tại, phát triển nguồn nhân lực về quản trị, công nghệ, phát triển sản phẩm, kỹ năng mềm…) cũng như nâng cao hiểu biết, kỹ năng về tài chính, công nghệ cho đối tượng khách hàng bằng các chương trình giáo dục tài chính qua nhiều hình thức. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, thành lập một tổ chức dưới dạng hiệp hội tài chính vi mô để tập hợp tiếng nói, hỗ trợ, chia sẻ giữa các đơn vị. Các chương trình, dự án, tổ chức tài chính vi mô cũng cần chủ động nâng cao về năng lực tài chính (chủ động mở rộng nguồn vốn, tăng cường hợp tác với các tổ chức tín dụng, minh bạch thông tin về điều hành, quản trị để thu hút giới đầu tư). Việc áp dụng công nghệ cũng là một trong nhiều giải pháp quan trọng. Các tổ chức, chương trình, dự án cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quá trình hoạt động cũng như đẩy mạnh hợp các với các công ty công nghệ, công ty Fintech để cùng đưa ra các giải pháp số nhằm cắt giảm chi phí, hướng đến tự động hóa để nâng cao hiệu quả hoạt động. |
09:25 Ông Ambrosio N. Barros - Trưởng đại diện văn phòng quốc gia khu vực Mekong, Giám đốc Quốc gia IFAD Việt Nam, Lào, Myanmar và Thái Lan - Đại diện nhà tài trợ IFAD tại Việt Nam phát biểu khai mạc: Kính thưa Tiến sĩ Phạm Minh Tú, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Kính thưa Tiến sĩ Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, Phân tích và Dự báo Kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương, Kính thưa Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Luyện, Nguyên Phó Giám đốc Học viện Ngân hàng, Thành viên Hội đồng Học viện Ngân hàng, Kính thưa các đại diện từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các Bộ, cơ quan chính quyền địa phương, các tổ chức tài chính vi mô, các chương trình và dự án tài chính vi mô, Kính thưa Nhà báo Bùi Văn Khương, Tổng Biên tập Tạp chí điện tử Kinh doanh và Phát triển, cùng đại diện các cơ quan báo chí, truyền thông và đài truyền hình, Kính thưa quý vị đại biểu từ VietED và các tổ chức quốc tế, các viện nghiên cứu chính sách và các đối tác phát triển, quý vị đại biểu. Chào mừng quý vị đến với Hội thảo Chính sách về Tài chính Vi mô – Cơ hội cho Người nghèo và Doanh nghiệp Siêu nhỏ. Như Nhà báo Bùi Văn Khương đã giới thiệu, hội thảo hôm nay diễn ra vào thời điểm quan trọng khi chúng ta cùng nhìn lại 5 năm qua thực hiện Chiến lược Tài chính Toàn diện Quốc gia đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030. Tài chính vi mô dành cho người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ là một trụ cột quan trọng trong Chiến lược Quốc gia của Việt Nam, đồng thời cũng là sứ mệnh toàn cầu của Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD). Thay mặt văn phòng đa quốc gia của IFAD tại Hà Nội và với tư cách Giám đốc Quốc gia IFAD tại Việt Nam, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cơ quan trung ương, chính quyền địa phương, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng phát triển và thương mại, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các tổ chức tài chính vi mô và các đối tác đã đồng hành cùng IFAD trong suốt 30 năm qua để mang lại dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ tại Việt Nam. Tôi cũng xin cảm ơn Tạp chí điện tử Kinh doanh và Phát triển cùng VietED đã tổ chức cuộc đối thoại quan trọng và thú vị này giữa các bên liên quan tham gia xây dựng và hoàn thiện chính sách dựa trên thực tiễn và đổi mới. Trong gần 3 năm làm việc tại Việt Nam, qua các chuyến thăm thực địa, tôi đã chứng kiến đời sống và tiêu chuẩn sống của các cộng đồng nông thôn, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số nghèo, được cải thiện đáng kể nhờ tiếp cận tốt hơn với dịch vụ tài chính vi mô. Do đó, trước tiên tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc củng cố khung chính sách hỗ trợ phát triển bền vững dịch vụ tài chính vi mô dành cho người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ. Kính thưa quý vị, Trong 30 năm qua, thông qua 16 dự án đã hoàn thành và đang triển khai với tổng vốn đầu tư 690 triệu USD, IFAD đã hỗ trợ phát triển nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu và định hướng thị trường tại 11 tỉnh trên cả nước. Trong mỗi dự án, việc cung cấp dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ là yếu tố bắt buộc. IFAD cũng đã hỗ trợ thành lập và nâng cao năng lực của 11 Quỹ Phát triển Phụ nữ tại Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Gia Lai, Đắk Nông, Ninh Thuận, Bến Tre và Trà Vinh. Chuẩn bị cho hội thảo này, IFAD đã tiến hành khảo sát nhanh toàn bộ các Quỹ Phát triển Phụ nữ để đánh giá tình hình hiện tại, các vấn đề, thách thức và đề xuất cải thiện chính sách. Tôi rất vui mừng báo cáo rằng nhờ sự hỗ trợ ban đầu của IFAD, các Quỹ này đã phát triển rất tốt. Hiện nay, tổng dư nợ của các Quỹ đạt 870 tỷ đồng, phục vụ 73.066 thành viên thuộc 11.659 nhóm tiết kiệm và tín dụng của phụ nữ. Trong đó, 6 Quỹ đã đạt mức vốn trên 50 tỷ đồng, đủ điều kiện đăng ký trở thành tổ chức tài chính vi mô. Tác động của dịch vụ tài chính vi mô từ các Quỹ là rất đáng kể. Ví dụ, tỷ lệ hộ nghèo trong số khách hàng của Quỹ tại Trà Vinh đã giảm từ 28% năm 2018 xuống còn 1,72% năm 2023. Tương tự, tại Gia Lai, tỷ lệ này đã giảm từ 41% năm 2018 xuống còn 10,1% năm 2023. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức. Tôi đánh giá cao việc Ban tổ chức hội thảo đã tạo cơ hội cho các đại diện của Quỹ Phát triển Phụ nữ chia sẻ những vấn đề, thách thức mà họ đang đối mặt, đồng thời đề xuất những thay đổi chính sách cần thiết để hỗ trợ sự phát triển của các Quỹ này. Tôi tin rằng các đại diện từ thực tiễn hoạt động sẽ mang đến nhiều phát hiện và ý tưởng phong phú để chúng ta cùng thảo luận hôm nay. Tôi mong rằng các thảo luận hôm nay không chỉ xác định các vấn đề và thách thức trong việc phát triển lĩnh vực tài chính vi mô mà còn đề xuất các hành động cụ thể để tiếp tục hỗ trợ người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ. Chúng ta hãy cùng học hỏi từ kinh nghiệm phong phú của các tổ chức tài chính vi mô và các chương trình tài chính vi mô, đánh giá các cách tiếp cận đổi mới, thực tiễn tốt, và quan trọng nhất là các bài học rút ra trong việc cung cấp dịch vụ tài chính vi mô. Nhân dịp khai mạc hội thảo, tôi xin tái khẳng định cam kết mạnh mẽ của IFAD trong việc tiếp tục góp phần thực hiện Chiến lược Tài chính Toàn diện Quốc gia và củng cố chính sách phát triển tài chính vi mô nói riêng. Chúc hội thảo thành công tốt đẹp và cảm ơn quý vị đã tham gia tích cực cũng như đóng góp ý kiến quý báu. Xin chân thành cảm ơn. |
09:20 Nhà báo Bùi Văn Khương, Tổng Biên tập Tạp chí điện tử Kinh doanh và Phát triển Phát biểu và giới thiệu Tọa đàm: Kính thưa quý vị đại biểu, khách quý, cùng toàn thể quý vị tham dự tọa đàm, Hôm nay, tôi rất vinh dự được đại diện Tạp chí điện tử Kinh doanh và Phát triển phát biểu khai mạc tọa đàm mang chủ đề: "Tài chính vi mô: Cơ hội vươn lên cho người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ". Trước tiên, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn trân trọng tới:
Cùng toàn thể các chuyên gia, nhà nghiên cứu và khách mời đã dành thời gian quý báu tham dự sự kiện này. Kính thưa quý vị, Ngày 22 tháng 1 năm 2020, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 149/QĐ-TTg. Chiến lược đặt mục tiêu mở rộng khả năng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ tài chính an toàn, phù hợp, có chi phí hợp lý, hướng tới tính trách nhiệm và bền vững, đồng thời được cung cấp bởi các tổ chức hợp pháp. Sau gần 5 năm triển khai, đây là thời điểm cần thiết để chúng ta nhìn lại tiến độ thực hiện và đánh giá các vấn đề tồn tại. Đặc biệt, cần chú trọng đến hiệu quả triển khai đối với các nhóm yếu thế: cư dân nông thôn, vùng sâu vùng xa; người nghèo, phụ nữ và những đối tượng dễ bị tổn thương khác, cũng như các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, hợp tác xã và hộ kinh doanh gia đình. Hôm nay, tại buổi tọa đàm này, chúng ta sẽ cùng nhau thảo luận các khía cạnh thiết yếu của tài chính vi mô - một công cụ quan trọng nhằm hỗ trợ người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ vươn lên, vượt qua khó khăn và xây dựng nền tảng phát triển bền vững. Kính thưa quý vị, Tài chính vi mô không chỉ đơn thuần là các khoản vay nhỏ lẻ mà còn mang tính đột phá trong việc thúc đẩy hòa nhập tài chính và cải thiện cuộc sống của người dân. Các sản phẩm tài chính này được thiết kế linh hoạt, phù hợp với những đối tượng khó tiếp cận các dịch vụ ngân hàng truyền thống, giúp họ xây dựng sinh kế, nâng cao thu nhập và thoát nghèo một cách bền vững. Buổi tọa đàm hôm nay được tổ chức dưới sự phối hợp của:
Sự kiện này là cơ hội để các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách cùng chia sẻ, thảo luận và đưa ra những đề xuất thiết thực nhằm hoàn thiện khung pháp lý, định hướng chính sách và thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường tài chính vi mô tại Việt Nam. Nội dung trọng tâm của tọa đàm bao gồm: 1. Đánh giá các thách thức trong việc tiếp cận tài chính vi mô, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa và những khu vực khó khăn. 2. Phân tích vai trò của giáo dục tài chính trong nâng cao hiệu quả triển khai các chương trình tài chính vi mô. 3. Đề xuất các chiến lược phát triển tài chính vi mô theo hướng bền vững, đồng bộ với Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia và các quy định pháp luật mới, bao gồm Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi (ban hành tháng 1 năm 2024). Chúng ta cần khẳng định rằng, một khung pháp lý rõ ràng, minh bạch và thuận lợi là điều kiện tiên quyết để tài chính vi mô phát huy vai trò hỗ trợ người nghèo và doanh nghiệp siêu nhỏ, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững mà Chính phủ đã đề ra. Kính thưa quý vị, Buổi tọa đàm hôm nay không chỉ là dịp để trao đổi ý kiến mà còn là nền tảng để xây dựng những giải pháp khả thi, đồng thời định hướng cho sự phát triển của lĩnh vực tài chính vi mô tại Việt Nam. Tôi tin tưởng rằng, với sự góp mặt của các chuyên gia uy tín, cùng sự tham gia tích cực của tất cả quý vị, chúng ta sẽ đưa ra những ý tưởng, sáng kiến thiết thực nhằm tháo gỡ các khó khăn hiện hữu và mở ra cơ hội mới cho những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Một lần nữa, tôi xin trân trọng cảm ơn sự hiện diện của quý vị tại tọa đàm hôm nay. Chúc buổi tọa đàm thành công tốt đẹp! Xin trân trọng cảm ơn! |
- Thỏa thuận tài chính khí hậu đầu tư cho hành tinh xanh tại COP29
- Đột phá tài chính vi mô: Công nghệ dẫn lối tăng trưởng bền vững