Theo số liệu thống kê từ 28 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính, số dư nợ xấu tại thời điểm 31/3/2022 tăng 24% so với hồi đầu năm, lên trên 170.134 tỷ đồng. Và gần 90% trong số đó ghi nhận nợ xấu tăng.

Số dư nợ xấu tại nhiều ngân hàng đã tăng mạnh trong quý đầu năm đưa tỷ lệ nợ xấu vượt ngưỡng 3%, thậm chí, tại một số ngân hàng tỷ lệ này ở mức hai chữ số.

Chuyên gia phân tích: Lo ngại rủi ro từ lĩnh vực bất động sản lan sang hệ thống ngân hàng
Hình minh họa.

Giới phân tích nhận định, rủi ro nợ xấu ngành ngân hàng trong năm nay chịu ảnh hưởng nhiều bởi rủi ro từ các khoản nợ tái cơ cấu, sự trầm lắng của thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp.

Trước mối lo ngại về việc rủi ro từ lĩnh vực bất động sản lan sang ngân hàng, TS Cấn Văn Lực Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia, cho rằng, khó khăn của thị trường bất động sản lần này khác so với “khủng hoảng” cách đây 10 năm.

Theo đó, thị trường bất động sản 10 năm trước là dư cung, còn hiện nay là thiếu cung. Nhu cầu mua bất động sản vẫn có nhưng ách tắc, dòng vốn đứt đoạn ở một vài giai đoạn nhất định. Khi được khơi thông về pháp lý, về vốn, thị trường bất động sản sẽ phục hồi rất nhanh, chứ không “xập xệ” như cách đây 10 năm.

Bên cạnh đó, tỷ trọng cho vay bất động sản được công bố ở mức 21%, trong đó 68% là cho vay gắn với nhà ở, 32% là cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản. Theo TS Cấn Văn Lực, tỷ lệ này là khá "êm" so với nước láng giềng là Trung Quốc.

Ngoài ra, về chất lượng tín dụng bất động sản, nếu tính bình quân, TS Cấn Văn Lực cho rằng tỷ lệ nợ xấu cho vay bất động sản có cao hơn tỷ lệ nợ xấu bình quân của hệ thống ngân hàng, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, nếu tính riêng cho vay doanh nghiệp phát triển bất động sản chỉ chiếm 7%, về cơ bản không phải là quá lớn.

Theo ông Lực, tỷ trọng 21% cho vay bất động sản ở Việt Nam so với quốc tế là khá thấp. Các quốc gia khác thông thường cho vay bất động sản bao gồm cả cho vay nhà ở và cho vay kinh doanh bất động sản chiếm khoảng 29% tổng dư nợ.

Hệ thống ngân hàng trải qua nhiều năm đã có kinh nghiệm để phòng chống rủi ro, kinh nghiệm quản trị rủi ro, quản lý nợ xấu, mua bán sáp nhập (M&A), đã có nhiều bài học do đó ông Lực đồng ý rằng ngành ngân hàng có thể khả năng vượt qua được “cơn bão” rủi ro từ lĩnh vực bất động sản.

Chuyên gia phân tích: Lo ngại rủi ro từ lĩnh vực bất động sản lan sang hệ thống ngân hàng

Còn theo nhận định của ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Nghiên cứu và Phân tích, CTCP Chứng khoán MayBank Kim Eng, nợ xấu sẽ tiếp tục có áp lực tăng tuy nhiên không gây áp lực rủi ro hệ thống và các ngân hàng cũng không phải tăng chi phí trích lập dự phòng đột ngột.

Chuyên gia MBKE cho rằng khi nhìn nhận chất lượng tài sản của các ngân hàng, nhà đầu tư không nên nhìn con số tuyệt đối mà nên nhìn theo chỉ số, trong đó có tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ bao phủ nợ xấu, tức các ngân hàng đã trích lập bao nhiêu để dự phòng cho tương lai.

Từ giữa năm ngoái sau khi vấn đề về bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp xảy ra, chúng ta có thể thấy ngành bất động sản đang gặp vấn đề pháp lý rất nặng khiến dòng tiền không đáp ứng được kế hoạch trả nợ, đặc biệt là nợ trái phiếu góp phần làm tăng tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Hiện tại, tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng niêm yết là 1,7%, còn cả hệ thống là 2%.

Về áp lực nợ xấu từ lĩnh vực BĐS, ông Thành phân tích hiện cho vay kinh doanh BĐS chiếm tỷ lệ khoảng 7% tổng dư nợ, cộng với phần trái phiếu mà ngân hàng nắm giữ 2,5% (trong đó chỉ có 30% là cho vay BĐS) là khoảng 10%.

"Ngay cả trong trường hợp một nửa trong số đó trở thành nợ xấu thì cũng không đẩy hệ thống ngân hàng về tình trạng cách đây 10 năm", ông Thành nói.

Nguyên nhân là các ngân hàng hiện nay đã xây dựng được bộ đệm dự phòng tương đối lớn có có thể xử lý được số nợ xấu trong vòng 1- 1,5 năm. Bên cạnh đó, NIM của các ngân hàng hiện tại khoảng 4,1% (có giảm nhẹ so với trước), từ đó ước tính lãi ròng của ngân hàng khoảng 1,8 - 2%, đủ sức xử lý nợ xấu ở tỷ lệ nói trên.

Do đó, chúng ta có thể kiểm soát được tình trạng nợ xấu, sẽ không gây áp lực rủi ro hệ thống và các ngân hàng cũng không phải tăng chi phí trích lập dự phòng đột ngột.