Để phát triển công nghiệp xanh, Việt Nam cần có các chính sách thích hợp nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh trong ngành này. Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh, bao trùm ngành công nghiệp Việt Nam, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh trong ngành công nghiệp hiệu quả hơn trong giai đoạn tới.

1. Đặt vấn đề

Thực hiện kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 về mục tiêu xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu trước bối cảnh bất ổn của nền kinh tế thế giới và nhiều biến động. Sự tác động ngắn hạn này đánh đổi bởi lợi ích và chi phí kinh tế và môi trường, tuy nhiên dài hạn thúc đẩy nhanh tốc độ đạt được mục tiêu phát triển bền vững, do đó con đường tăng trưởng xanh bao trùm là xu thế không thể đảo ngược. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động trên toàn bộ các mặt, các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội. Với việc hình thành các tư liệu sản xuất mới trên cơ sở sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại và tư duy biện chứng và năng lực của con người; các quan hệ sản xuất mới sẽ hình thành đồng thời với sự dịch chuyển dòng vốn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, công nghiệp là ngành tiên phong trong chuyển đổi xanh, bao trùm. Việc hoàn thiện thể chế, chính sách phù hợp trong giai đoạn thứ hai của quy trình công nghiệp 4.0 là cần thiết đối với Việt Nam hiện nay.

2. Chuyển đổi xanh, bao trùm trong công nghiệp và những yêu cầu đặt ra

“Chuyển đổi xanh” (Green Transformation) tức chuyển đổi nền kinh tế từ nâu sang xanh. Cái lõi của Chuyển đổi xanh là mục tiêu giảm phát thải carbon - nguyên nhân tạo ra phát thải carbon là sản xuất công nghiệp gây hại không khí, là nạn phá rừng, sự đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí tự nhiên); còn có nguyên nhân tự nhiên như sự phân hủy, sự tuần hoàn khí CO 2 của đại dương… Chuyển đổi xanh còn giúp giảm tác động của hiệu ứng nhà kính thông qua cải tiến môi trường sinh thái. Theo đó, các hoạt động chuyển đổi xanh gồm: Chuyển dịch năng lượng, chuyển đổi công nghiệp xanh, nông nghiệp bền vững và kinh tế tuần hoàn. Tại Việt Nam, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 đã nêu rõ các mục tiêu cơ bản về chuyển đổi xanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kết hợp hài hòa đạt được mục tiêu lợi ích quốc tế.

Hiện nay, chuyển đổi xanh gắn với phục hồi kinh tế là yêu cầu cấp bách của sự phát triển và là “con đường tất yếu” sự lựa chọn phù hợp của tăng trưởng bền vững vì các nguyên nhân sau:

(1) Thúc đẩy phục hồi kinh tế. Theo Báo cáo của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc, cách tiếp cận xanh đối với phục hồi kinh tế (hay “phục hồi xanh”) - hướng tới mục tiêu kép về tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đang là lựa chọn hàng đầu được Liên Hợp Quốc khuyến khích và các vùng lãnh thổ, quốc gia phát triển tiên phong thúc đẩy. Tiếp nối các Chiến lược phát thải thấp theo hướng xanh, sạch với tầm nhìn dài hạn đến giữa thế kỷ XXI (LTS), Thỏa thuận kinh tế xanh (Green Deal), Thỏa thuận kinh tế xanh mới (Green New Deal) được công bố với kỳ vọng đẩy mạnh quá trình phục hồi và tăng trưởng xanh thêm một bước mới.

(2) Thúc đẩy tăng trưởng trung và dài hạn. Mục tiêu của tăng trưởng xanh là thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực chống chịu. Việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh là hết sức cần thiết, cấp bách trong bối cảnh hiện nay. Tăng trưởng xanh là con đường giúp chúng ta tránh khỏi hệ lụy phát triển xong phải đi giải quyết các hậu quả của môi trường. Tăng trưởng xanh sẽ phải là tất yếu của sự phát triển và phù hợp với mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam.

(3) Thúc đẩy đạt được mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc. Quá trình chuyển đổi xanh được thúc đẩy bởi nhu cầu đạt được các mục tiêu trung lập và bền vững về khí hậu. Quá trình này không tự xảy ra, mà cần có sự thúc đẩy, giám sát trên phương diện chính trị và xã hội. Quá trình chuyển đổi số là một quá trình thay đổi liên tục nhờ vào công nghệ số. Xét về bản chất, hai quá trình chuyển đổi này không diễn ra đơn lẻ, mà hợp nhất, bổ trợ cho nhau. Thuật ngữ này cũng đề cập đến việc hợp nhất hai quá trình chuyển đổi, có thể đẩy nhanh những thay đổi cần thiết và đưa xã hội đến gần hơn tới Mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên Hợp Quốc đề ra.

Ngành công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất, bao gồm các hoạt động: (i)Khai thác của cải vật chất có sẵn trong thiên nhiên mà lao động của con người chưa tác động vào; (ii) Chế biến những sản phẩm đã khai thác và chế biến sản phẩm của nông nghiệp; (iii) Hoạt động sản xuất công nghiệp còn bao gồm cả việc sửa chữa máy móc thiết bị và vật phẩm tiêu dùng. Như vậy, tất cả các hoạt động khai thác chế biến và sửa chữa nói trên không kể quy mô, hình thức như thế nào, không kể với loại công cụ lao động gì, hoặc bằng cơ khí hiện đại, nửa cơ khí, hoặc bằng công cụ thô sơ dựa vào sức lao động và sự khéo léo của chân tay người lao động là chính, đều xếp vào ngành công nghiệp. Việc chuyển đổi công nghiệp xanh có thể giúp ngành quy hoạch theo hướng đồng bộ, hiện đại, thu hút FDI; tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, giải quyết việc làm, phát triển đô thị; thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng; mở rộng quan hệ ngoại giao... Tiến trình phát triển chuyển đổi công nghiệp xanh gồm: Kiểm soát ô nhiễm, sản xuất sạch hơn, hiệu quả sinh thái, tư duy vòng đời, sản xuất khép kín và công nghiệp sinh thái.

3. Kết quả thực hiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh, bao trùm đối với ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay

Hiện nay, khi đề cập đến kết quả việc thực hiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh, bao trùm ngành công nghiệp Việt Nam, cần xét đến cả tính tích cực với các thành tựu vĩ mô và vi mô và tính tiêu cực có tác động đến kinh tế và môi trường, thể hiện ở những phương diện tổng quát sau:

3.1. Kết quả đạt được

Trong giai đoạn chiến lược 10 năm (2011-2020), công nghiệp là ngành có đóng góp ngày càng lớn trong nền kinh tế; Cơ cấu từng bước dịch chuyển theo hướng hiện đại; Đã hình thành được một số ngành công nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh và vị trí vững chắc trên thị trường quốc tế. Cụ thể, quy mô sản xuất công nghiệp liên tục được mở rộng với chỉ số sản xuất công nghiệp giai đoạn 2011-2020 tăng cao (bình quân 7,7%/năm), tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân tăng 7,42%/năm, góp phần đưa công nghiệp thành trở thành ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân; đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và của thế giới, thuộc nhóm ASEAN-4 và nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao.

Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp có sự chuyển biến theo hướng hiện đại. Giảm tỷ trọng các ngành thâm dụng tài nguyên, tăng tỷ trọng của các ngành chế biến chế tạo. Chuyển dịch nội ngành từ các ngành thâm dụng lao động (dệt may, da giày) sang các ngành thâm dụng vốn (thép, ô tô, hóa chất) và hiện nay là sang các ngành thâm dụng công nghệ (điện tử, công nghệ thông tin). Việt Nam đã hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thông qua việc sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng và tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo đáng kể trong thời gian qua, hiệu suất sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng đã được cải thiện, góp phần tích cực vào việc giảm phát thải khí nhà kính và phát triển xã hội ít các bon. Theo số liệu công bố của Viện Năng lượng - Bộ Công Thương, tỷ lệ tiết kiệm năng lượng của Việt Nam trong thời gian qua đạt hơn 6%, tương đương với tổng năng lượng tiết kiệm gần 12 triệu tấn dầu quy đổi. Trong đó, cường độ năng lượng của các ngành sản xuất công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng đều giảm dần, như: ngành thép giảm 8,09%, xi măng giảm 6,33%, dệt sợi giảm 7,32%. Bên cạnh đó, năng lượng tái tạo cũng được xác định là nguồn năng lượng quan trọng và nhiều tiềm năng của đất nước.

Công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực tăng trưởng của toàn ngành và toàn nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao nhất (bình quân 10,4%/ năm), đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng nhanh qua các năm. Giá trị tăng thêm ngành chế biến, chế tạo bình quân đầu người giai đoạn 2011-2020 đạt kết quả ấn tượng và tăng đều qua các năm (bình quân tăng 9,2%/năm; trong đó năm 2017 đạt mức tăng cao nhất 13,1%). Một số hoạt động liên quan đến sản xuất và tiêu dùng bền vững, trong đó có tiêu dùng xanh cũng bắt đầu được quan tâm nhiều hơn. Nhiều văn bản liên quan đã được ký kết, như: Tuyên ngôn quốc tế và Kế hoạch hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững (1999); Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả… Các chương trình liên quan đến sản phẩm xanh, như: Chương trình cấp Nhãn sinh thái (Bộ Tài nguyên và Môi trường; Nhãn tiết kiệm năng lượng (Bộ Công Thương); Nhãn sinh thái cho ngành du lịch cũng được triển khai.

3.2. Một số hạn chế

Trong xây dựng thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh, bao trùm ngành Công nghiệp Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế, có thể kể đến, như:

- Hệ thống thể chế, chính sách phát triển công nghiệp còn chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Việc ban hành chính sách, pháp luật thúc đẩy phát triển công nghiệp nhiều khi còn chậm, với chất lượng chính sách còn chưa cao. Chưa có các công cụ chính sách đủ mạnh để thúc đẩy phát triển công nghiệp, thể hiện công nghiệp hóa là cốt lõi của quá trình phát triển.

- Chính sách kinh tế vĩ mô chưa điều tiết phù hợp các nguồn lực quốc gia cho phát triển công nghiệp, chưa khuyến khích sự quan tâm của xã hội đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Việc này dẫn đến sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn về tiếp cận vốn do bản chất của khu vực sản xuất đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn và dài hạn, thời gian thu hồi vốn chậm, lợi nhuận biên kém hấp dẫn so với đầu tư vào lĩnh vực khác như bất động sản, tài chính.

- Nội lực của nền công nghiệp trong nước còn yếu, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp trong nước chưa cao, giá trị gia tăng tạo ra trong nước còn thấp, nền công nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài.

- Nguồn nhân lực công nghiệp còn yếu kém, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, thiếu tính liên kết giữa khu vực sản xuất với các cơ sở đào tạo, đội ngũ lãnh đạo các doanh nghiệp công nghiệp còn thiếu kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, thiếu nền tảng lý thuyết khoa học về quản trị sản xuất, không có cơ hội tiếp cận với các phương pháp quản lý sản xuất hiệu quả.

- Trình độ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp trong nước còn hạn chế, đa số các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng ngoài cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, với sự tiếp cận ở mức độ thấp đối với tất cả các trụ cột của một nền sản xuất thông minh.

Những tồn tại và hạn chế trong thực hiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh, bao trùm ngành Công nghiệp Việt Nam là do các nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, tầm quan trọng của việc xây dựng hệ sinh thái số không phân biệt đối xử cho doanh nghiệp và người tiêu dùng. Việc chưa hoàn thiện các điều kiện mà đã đẩy nhanh triển khai lộ trình kinh tế internet/kinh tế số, nhất là trong các lĩnh vực bảo mật dữ liệu, điện toán đám mây, mạng viễn thông, thương mại điện tử và thúc đẩy môi trường đổi mới sáng tạo đã khiến cho hiệu quả không cao. Như vậy, vấn đề đặt ra, ở phạm vi quốc gia, các chính sách phát triển kinh tế không chỉ nhằm tạo thuận lợi cho đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn nâng cao chất lượng việc làm, gia tăng thu nhập cho người lao động, góp phần bảo tồn môi trường sinh thái.

Hai là, chất lượng cuộc sống của người dân và khả năng mở rộng tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, thúc đẩy bình đẳng giới, nâng cao quyền năng cho phụ nữ, người thiểu số, các cộng đồng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn chưa đạt được sự đồng thuận nhất định, khiến tình trạng tham gia liên kết còn ít.

Ba là, năng lực, khả năng tự chủ, sáng tạo và ứng dụng khoa học, công nghệ, đồng thời xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, các mô hình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Hợp tác xây dựng khu vực tự cường, sẵn sàng ứng phó với các thách thức chưa được hình thành.

Thứ tư là, vấn đề phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường; mâu thuẫn trong tăng trưởng kinh tế và khoảng cách giàu nghèo chậm được giải quyết. Trong quá trình toàn cầu hóa thì xu thế bảo hộ, phân tách lại gia tăng mạnh mẽ; khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng tầm thế giới nhưng khung khổ thể chế vẫn cơ bản giới hạn ở tầm quốc gia; tăng trưởng khuyến khích tiêu dùng nhưng lại không thể huy động đủ nguồn lực cho các mục tiêu phát triển bền vững.

4. Giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh, bao trùm ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay

Để kết quả thực hiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh, bao trùm ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay đạt hiệu quả cao, đảm bảo đem lại kết quả khả quan cả về kinh tế - xã hội và môi trường, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, chuyển đổi tư duy kinh doanh bao trùm bền vững hơn, thay đổi nhận thức của người sản xuất và xã hội về chuyển đổi xanh, bao trùm ngành công nghiệp thông qua sự thích nghi với mô hình kinh tế công nghiệp mới. Hiện nay, xu hướng này là phương thức tiếp cận được nhiều quốc gia và các tổ chức trên thế giới khuyến khích. Với các nguyên tắc hạn chế khai thác cạn kiệt tài nguyên, cần hợp tác hài hòa kinh tế và môi trường. Tuy nhiên, để thực hiện các nguyên tắc này không phải là dễ vì đây là khái niệm mới và cách tiếp cận mới, mô hình mới. Cùng với đó, cần thay đổi nhận thức của xã hội để khuyến khích sản xuất theo hướng xanh, sạch và bền vững hơn.

Hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh, bao trùm ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay là xu hướng tất yếu. (Ảnh minh họa)

Thứ hai, xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ người sản xuất, doanh nghiệp. Các chính sách khuyến khích doanh nghiệp và người sản xuất trong việc chuyển đổi hệ thống sản xuất. Cụ thể là bên cạnh các chính sách đào tạo, tập huấn kiến thức cho doanh nghiệp thì cũng cần có chính sách hỗ trợ, kết nối, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm hay có chính sách ưu đãi tín dụng hỗ trợ cho sản phẩm công nghiệp bền vững.

Thứ ba, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường. Theo đó, cần đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công nghiệp; thực hiện điều chỉnh phân bố không gian phát triển công nghiệp của vùng, địa phương theo hướng gắn với các vùng động lực, cực tăng trưởng, hành lang kinh tế trọng điểm, phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, lợi thế của từng vùng, bảo đảm tính chuyên môn hóa cao, tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng; hình thành các vùng công nghiệp, vành đai công nghiệp, cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp, trọng tâm là hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp. Tái khẳng định cam kết duy trì mở cửa thị trường, đẩy mạnh liên kết kinh tế quốc tế, ủng hộ một nền kinh tế thế giới mở, bao trùm và bền vững. Bảo đảm lợi ích từ thương mại được phân phối rộng khắp và bình đẳng trong xã hội. Tự do thương mại và đầu tư sẽ giúp nền kinh tế nâng cao sức cạnh tranh, tiếp tục là lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư, Luật Hợp tác xã.

Thứ tư, quản trị toàn cầu về công nghệ (nhất là trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học) không chỉ hướng đến quản lý sự phát triển của các loại công nghệ, mà còn phải giải quyết các hệ quả kinh tế - xã hội, văn hoả, chính trị từ quá trình này. Việc định hình luật lệ, quy định, tiêu chuẩn chung phải tính đến trình độ phát triển của mỗi quốc gia, bảo đảm tất cả các quốc gia dù lớn hay nhỏ và mọi người dân đều phải được hưởng lợi từ tiến bộ khoa học - công nghệ. Đồng thời, cần bảo đảm cân bằng giữa tạo môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học - công nghệ với bảo đảm an toàn, an ninh và chủ quyền quốc gia.

Thứ năm, cần ưu tiên nguồn lực cho các mục tiêu phát triển bền vững và bao trùm. Thế giới đã đi qua hơn nửa chặng đường của các Mục tiêu phát triển bền vững 2030, nhưng khoảng cách giữa cam kết và thực thì còn quá xa. Với cách làm như hiện nay, thì Việt Nam chỉ có thể hoàn thành các mục tiêu này vào năm 2065, tức là chậm hơn 35 năm so với kế hoạch ban đầu. Do vậy, yêu cầu cấp thiết là phải huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính công, tư, trong nước và quốc tế, cũng như đóng góp của các tổ chức và người dân. Các quốc gia phát triển cũng cần thực hiện tốt hơn cam kết đóng góp thu nhập quốc gia để hỗ trợ cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

5. Kết luận

Hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi xanh, bao trùm ngành công nghiệp Việt Nam hiện nay là xu hướng tất yếu, phù hợp, thúc đẩy công nghiệp phát triển bền vững. Để các chính sách này phát huy hết tính ưu việt và phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội, vị trí địa chính trị, cần có cơ chế chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong việc tiếp cận vốn, tăng cường ứng dụng công nghệ và nâng cao năng lực tự chủ, tự chuyển biến và chuyển hóa trong sản xuất và ứng dụng thực tiễn./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Công thương (2021), Công nghiệp Việt Nam năm 2020 và 5 năm 2016-2020, truy cập từ https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/congnghiep-viet-nam-nam-2020-va-5-nam-2016---2020-4291.4050.html.

2. Diệp Trương (2023), Tạo thuận lợi để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, truy cập từ https://baotintuc.vn/thoi-su/ tao-thuan-loi-de-doanh-nghiep-thuc-hien-muc-tieu-phat-trien-benvung-20230823182121702.htm.

3. UN (2021), The Glasgow Climate Pact - UNFCC GLASLOW COP26, retrieved from ttps://unfccc.int/sites/default/files/resource/cop26_auv_2f_ cover_decision.pdf.

4. Vũ Văn Phúc (2019), Phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm ở Việt Nam, truy cập từ https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/phat-trien-benvung-sang-tao-bao-trum-o-viet-nam-phan-2-125492.

HÀ THỊ THÙY TRANG
Ban quản lý các công trình công cộng huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình