Sức nóng tỷ giá tác động thế nào đến thị trường chứng khoán?
Mối quan hệ giữa tỷ giá với thị trường chứng khoán
Theo thống kê cho thấy, mỗi khi tỷ giá vượt quá 2% thì thị trường chứng khoán thường xảy ra nhịp điều chỉnh. Mặc dù mức độ điều chỉnh sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng khi tỷ giá tăng, nhà đầu tư ngoại bán ròng, tâm lý thị trường thận trọng, thị trường sẽ chịu nhiều áp lực trong ngắn hạn.
Thời gian gần đây, tỷ giá đã trở thành vấn đề nóng khi các yếu tố liên quan đến xu hướng biến động mạnh như đà tăng của chỉ số DXY, giá vàng, thị trường tiền điện tử cũng như nhu cầu nhập khẩu tăng trở lại. Tỷ giá USD/VND liên ngân hàng hiện đã vượt qua ngưỡng 25.000. Tính đến ngày 12/4, VND đã mất giá 3,1% so với thời điểm đầu năm.
Theo ông Trần Hoàng Sơn, Giám đốc Chiến lược thị trường, Công ty Chứng khoán VPBank, việc tỷ giá tăng mạnh có tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán và một trong những ảnh hưởng mang tính gián tiếp liên quan đến dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đó là gây sức ép bán ròng trên thị trường.
Theo thống kê, vị chuyên gia cho biết, trong khoảng thời gian tỷ giá bắt đầu có biến động mạnh vào nửa cuối tháng 2/2024, trùng hợp với giai đoạn nhà đầu tư nước ngoài tăng tốc bán ròng đến thời điểm hiện tại. Tính đến tuần gần đây nhất, trong bối cảnh tỷ giá lập đỉnh, nhà đầu tư ngoại đã bán ròng tuần thứ 11 liên tiếp, giá trị bán ròng lũy kế lên đến 16.204 tỷ đồng. Thống kê riêng trên kênh ETF, dòng vốn đã bị rút khoảng 217 triệu USD (khoảng 5.400 tỷ đồng), đây là mức kỷ lục trong 2 năm gần đây.
Bên cạnh đó, tỷ giá USD/VND tăng cũng tác động tiêu cực đến tâm lý của nhà đầu tư trong nước. Nhìn lại 2 quý cuối năm ngoái có thể thấy, do sự ngược chiều về chính sách tiền tệ, VND mất giá mạnh so với đồng USD (có thời điểm giảm tới hơn 4%). Ở giai đoạn đó, VN-Index ghi nhận biến động mạnh, riêng 3 tháng từ tháng 8 đến tháng 10/2023 đã giảm hơn 15% cùng với thanh khoản sụt giảm.
Nguyên nhân chủ yếu được cho là do các nhà đầu tư lo ngại kịch bản năm 2022 sẽ lặp lại, khi Ngân hàng Nhà nước bán ra một lượng lớn USD để ổn định tỷ giá (tương đương rút gần 500.000 tỷ đồng ra khỏi hệ thống).
Tuy nhiên, ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Phân tích, Công ty Quản lý quỹ Vietcombank cho rằng, trong mỗi giai đoạn, yếu tố tỷ giá tác động đến thị trường là khác nhau. Vị chuyên gia lấy ví dụ như năm 2022, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức về vĩ mô, khi áp lực tỷ giá và lạm phát quá lớn, bắt buộc Ngân hàng Nhà nước phải tăng lãi suất điều hành liên tiếp, đi ngược với xu hướng trên thế giới.
Cùng với đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp được quản lý chặt chẽ hơn, khiến không ít doanh nghiệp phải đối mặt với rủi ro thanh khoản do không thể phát hành thêm để tái tài trợ cho các khoản vay sắp đáo hạn. Áp lực dòng tiền và tâm lý phòng thủ khi vĩ mô bất ổn đã dẫn tới việc nhà đầu tư bắt đầu bán tháo các tài sản rủi ro, trong đó bao gồm có cổ phiếu.
Trong khi đó, trở lại câu chuyện tỷ giá hiện nay, mặc dù áp lực mất giá khá lớn và Ngân hàng Nhà nước liên tục phát hành tín phiếu nhằm ổn định tỷ giá, nhưng nhìn chung cân đối vĩ mô ổn định cùng với thanh khoản vẫn dồi dào, nhất là trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng còn yếu. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nhà đầu tư không có áp lực phải bán tháo tài sản để xoay xở dòng tiền, các đợt điều chỉnh của VN-Index là do yếu tố tâm lý. Nếu nhìn lại năm 2023, sau khi VN-Index sụt giảm đã phục hồi khá tốt, gần 10% trong khoảng 2 tháng cuối năm.
Tỷ giá tác động đến các doanh nghiệp ra sao?
Nền kinh tế Việt Nam có độ mở rất lớn, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2023 đạt hơn 680 tỷ USD, tương đương 162% GDP. Do đó, việc tỷ giá biến động có tác động đáng kể lên nền kinh tế và mang tính 2 chiều.
Cụ thể, các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu sẽ được hưởng lợi, trong khi gây sức ép lên biên lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất. Trong kịch bản tiêu cực, việc đồng nội tệ mất giá gây áp lực tăng lạm phát, làm giảm sức mua của người dân, qua đó ảnh hưởng đến ngành bán lẻ và nhiều ngành nghề khác.
Theo phân tích của ông Nguyễn Anh Khoa, Giám đốc Phân tích, Công ty Chứng khoán Agribank, về mặt tích cực, các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc cho thuê giàn khoan, cho thuê đội tàu hoạt động trên thị trường quốc tế sẽ được hưởng lợi khi tỷ giá tăng do thu về ngoại tệ. Ở diễn biến ngược lại, tỷ giá tăng sẽ ảnh hưởng đến cấu trúc vốn cũng như chi phí tài chính của các doanh nghiệp có tỷ lệ vay nợ bằng USD lớn.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu đầu vào nhập khẩu cũng phải chịu rủi ro chi phí tăng, biên lợi nhuận giảm. Tỷ giá tăng nhìn chung sẽ có tác động ở mặt tích cực và tiêu cực đến các doanh nghiệp trên sàn, nhà đầu tư có thể đánh giá từng nhóm cổ phiếu được hưởng lợi để có thể tìm ra cơ hội đầu tư.
Ông Trần Hoàng Sơn cho biết, những doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ đến từ hoạt động xuất khẩu sẽ được hưởng lợi trong bối cảnh tỷ giá USD/VND tăng. Kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong quý I/2024 ước đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, tăng trưởng mạnh và đồng đều ở 3 nhóm hàng là: Nhóm nông, lâm, thủy sản đạt 9,9 tỷ USD, tương đương tăng 26,1% và chiếm 10,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhóm công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 82,02 tỷ USD, tăng 16,1%, chiếm tỷ trọng 88,1%. Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản ước 1,18 tỷ USD, tăng 10,8%.
Trong khi đó, tỷ giá có tác động 2 chiều với ngành dệt may (GIL, TCM, TNG, VGT…), bởi phần lớn các doanh nghiệp trong ngành này đều nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, sau đó gia công xuất khẩu. Chính vì thế, biến động tỷ giá không làm thay đổi nhiều đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may.
Ngành công nghệ, xuất khẩu phần mềm (FPT, CMG…) được hưởng lợi từ hoạt động gia công và xuất khẩu phần mềm. Tuy nhiên, đối với FPT có khoảng 1.426 tỷ đồng nợ vay theo USD, điều này làm giảm phần lãi chênh lệch tỷ giá từ hoạt động xuất khẩu.
Đối với ngành gỗ (PTB, SAV…) hay ngành cao su (DRI, DPR, PHR…), nợ vay bằng đồng USD thường ít và xuất khẩu ròng cao su nên được hưởng lợi khi tỷ giá tăng. Trong khi đó, ngành thực phẩm trên sàn có LTG, PAN… là những doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn, có thể ghi nhận chênh lệch lãi tỷ giá.
Lãnh đạo của một số doanh nghiệp đang có khoản vay bằng đồng USD chia sẻ, việc tỷ giá tăng đã dẫn tới lỗ chênh lệch tỷ giá, đồng thời kéo giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Được biết, một số doanh nghiệp có khoản vay lớn bằng USD có thể kể đến như Nhiệt điện Hải Phòng (mã chứng khoán HND), Nhiệt điện Quảng Ninh (mã chứng khoán QTP), Nhiệt điện Phả Lại (mã chứng khoán PPC). Hay như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam có dư nợ vay ngoại tệ hơn 1,5 tỷ USD, tương đương với 38.000 tỷ đồng, do đó yếu tố tỷ giá tác động lớn đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp này.
Nhận định về biến động tỷ giá thời gian gần đây, TS. Cấn Văn Lực cho rằng cơ bản là do đồng USD tăng giá. Từ đầu năm đến nay, đồng USD đã tăng 4,5%. Đồng tiền này tăng với 2 lý do chính: Thứ nhất là Fed có vẻ đang lưỡng lự trong việc hạ lãi suất. Thứ hai là kinh tế Mỹ không suy thoái thậm chí còn phục hồi tốt hơn năm ngoái. Điều này khiến USD tăng giá và các đồng nội tệ neo với USD đều bị giảm trong thời gian qua.
Vị chuyên gia cho rằng, về cơ bản quan hệ cung cầu ngoại tệ tại Việt Nam vẫn ổn. Khi Fed bắt đầu hạ lãi suất (có thể từ quý III/2024), thì ngay lập tức tỷ giá sẽ bớt áp lực. Dự báo, tỷ giá có thể tăng 2,5-3% trong năm nay.
Ngoài ra, điểm tích cực của năm 2024 là cơ cấu cung ứng vốn cho nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực hơn năm 2023. Dự báo cơ cấu cung ứng vốn cho nền kinh tế năm nay và các năm tiếp theo sẽ thay đổi tích cực, giảm tỷ trọng tín dụng ngân hàng, tăng tỷ trọng vốn từ kênh thị trường vốn, đầu tư tư nhân,...
- Chọn cổ phiếu đầu tư ra sao trong bối cảnh tỷ giá biến động?
- Dự trữ ngoại hối của Việt Nam khoảng 100 tỷ USD, đủ để ổn định tỷ giá
- Ngân hàng Nhà nước liên tục hút tiền, áp lực tỷ giá 2024 ra sao?