Thẻ tín dụng nội địa “thất thế” trước thẻ tín dụng quốc tế
Mới đây, Hội thảo "Phát huy tiềm năng thẻ tín dụng nội địa hướng tới xã hội không tiền mặt" đã diễn ra, các chuyên gia nhận định, từ khi xảy ra dịch bệnh đã làm thay đổi xu hướng thanh toán chi tiêu của nhiều người từ hình thức truyền thống là tiền mặt thành hình thức thanh toán thẻ.
Điều này đã được thể hiện rõ qua số liệu tăng trưởng sử dụng thẻ từ Ngân hàng Nhà nước. Trong vòng 5 năm từ năm 2018-2022, số lượng thẻ tín dụng nội địa phát hành đã tăng vượt bậc với mức trung bình là 29,6%.
Tính đến tháng 7/2023 đã có 15 ngân hàng thương mại đang thực hiện phát hành thẻ tín dụng nội địa với tổng số lượng thẻ phát hành là hơn 800, chiếm tỷ lệ khoảng 7,8% tổng số lượng thẻ (cả thanh toán và tín dụng), như vậy đã tăng 42,5% so với cùng kỳ 2022. Thực tế này chứng minh sự nhận diện và sử dụng thẻ tín dụng trên thị trường đang nhận được sự quan tâm của người sử dụng.
Ông Nguyễn Quang Minh - Tổng giám đốc công ty Cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam (NAPAS) đánh giá, tính đến thasng 7/2023 tỷ trọng của thẻ tín dụng nội địa đã chiếm 6%, còn thẻ tín dụng quốc tế chiếm đến 94%. Đa phần những loại thẻ tín dụng này đều được phát hành tại những thành phố lớn, còn các khu vực tỉnh thành lại chưa phổ biến hình thức này.
PGS.TS Đặng Ngọc Đức cho biết thêm, hiện tại Việt Nam đang có 15 ngân hàng phát hành thẻ tín dụng nội địa. Tuy nhiên, lại có sự khác biệt rõ ràng về số lượng cũng như giá phí của thẻ tín dụng nội địa và thẻ tín dụng quốc tế. Thông thường thẻ tín dung nội địa được phát hành tại các ngân hàng thương mại chỉ chiếm 1/6 đến 1/10 so với số loại thẻ tín dụng quốc tế được phát hành.
Ông Đức chia sẻ hiện tại ngân hàng Agribank có tổng cộng 7 loại thẻ tín dụng khác nhau, trong đó bao gồm thẻ tín dụng là một loại và 6 thẻ khác là thẻ tín dụng quốc tế. Đây là thực trạng đang diễn ra tại nhiều ngân hàng khác ví dụ như Sacombank, đây là ngân hàng có doanh thu từ thẻ tín dụng nội địa cao nhất cũng chỉ ghi nhận 1 loại thẻ tín dụng được phát hành, trên tổng số 12 loại thẻ tín dụng tất cả.
Theo ông Đức, nếu so sánh về giá và phí của thẻ tín dụng nội địa hiện nay thì ít hơn khá nhiều so với những loại thẻ khác. Về số lượng giá phí của thẻ tín dụng quốc tế và thẻ tín dụng nội địa đều được các ngân hàng niêm yết công khai. Thông thường, giá và phí của thẻ tín dụng nội địa ít và thấp hơn so với thẻ tín dụng quốc tế.
Thẻ tín dụng nội địa có những đặc thù riêng của sản phẩm nên không bị áp những loại thuế, phí liên quan đến việc thanh toán quốc tế, chi phí chuyển đổi ngoại tệ, phí giao dịch ngoại tệ, nội tệ ở các quốc gia khác.
Những mức phí phải đóng ở thời điểm hiện tại là do thẻ tín dụng nội địa cũng thấp hơn so với thẻ tín dụng quốc tế. Đối với mức phí duy trì thường niên của thẻ tín dụng quốc tế hàng năm sẽ dao động từ 299 nghìn đồng cho đến 2 triệu đồng đối với nhóm thẻ phổ thông, còn nhóm thẻ ưu tiên có thể lên đến hàng chục triệu đồng. Còn đối với thẻ tín dụng nội địa mức phí thường dao động từ 150-300 nghìn đồng cho các hạng thẻ khác nhau.
Cũng theo PGS.TS Đặng Ngọc Đức, bên cạnh phí thường niên phải đóng thì những chi phí để sử dụng dịch vụ, sản phẩm của thẻ nội địa cũng thấp hơn so với thẻ tín dụng quốc tế. Đối với thẻ tín dụng quốc tế mức phí tiêu vượt hạn mức dao động từ 2% đến 4% trên số tiền vượt hạn mức, còn thẻ tín dụng nội địa thì mức này chỉ rơi vào khoảng 0,075%. Hay chi phí rút tiền mặt của thẻ tín dụng nội địa là 1%, còn mức phí này đối với thẻ tín dụng quốc tế trung bình rơi vào khoảng 3%.
Đối với giá phí, thẻ tín dụng nội địa và thẻ tín dụng quốc tế cũng có những mức chênh lệch rõ ràng. Theo số liệu của Hiệp hội Ngân hàng, trung bình mỗi năm MasterCard và Visa thu từ một ngân hàng của Việt Nam khoảng 270 loại phí, đây được ví như là “ma trận phí” khi tổng thu hàng tháng có thể lên tới hàng trăm triệu USD.
Nhiều người còn cho rằng số tiền này được nhận định là mức “phí chồng phí” khi các giao dịch đều chiếm khoảng 80% tỷ trọng các loại phí, nghĩa là thu theo cả số lượng giao dịch và doanh thu của số giao dịch. Chính điều này đã vô tình dẫn đến việc ngân hàng thu thêm nhiều loại phí từ khách hàng khi sử dụng dịch vụ và thẻ tín dụng do ngân hàng phát hành.
Nhưng điều này cũng đã phần nào cho thấy những loại phí không phải là nguyên nhân khiến thẻ tín dụng nội địa của Việt Nam kém hấp dẫn, bởi lẻ thẻ tín dụng quốc tế chi phí cao hơn nhưng vẫn được nhiều người sử dụng hơn. Các chuyên gia đánh giá so với thẻ tín dụng quốc tế thì thẻ tín dụng nội địa vẫn còn một số nhược điểm yếu hơn và chưa thật sự thuận tiện trong sử dụng.
Thẻ tín dụng đang được rất nhiều người sử dụng và ưa chuộng tại Việt Nam nhờ những đặc điểm nổi bật mà loại thẻ này mang lại. Tuy nhiên, cũng cần lựa chọn thẻ tín dụng của những ngân hàng uy tín và lựa chọn loại thẻ phù hợp với nhu cầu của mỗi cá nhân. Vì thẻ tín dụng cũng có những nhược điểm mà người dùng không cẩn thận có thể sẽ bị liệt vào danh sách khách hàng có nợ xấu./.
- Lãi suất liên ngân hàng vượt trần tác động thế nào đến các nhà băng?
- Ngân hàng Thế giới đề xuất cho Việt Nam vay 11 tỷ USD trong 5 năm