Bộ Công Thương đánh giá tác động của 5 phương án giá bán lẻ điện sinh hoạt
Bộ Công Thương vừa đưa ra đánh giá tác động của 5 phương án giá bán lẻ điện sinh hoạt được đề xuất trong đề án “Cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện sinh hoạt” đang được bộ này lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương.
Phương án 1 là chỉ tính giá điện theo một bậc và có giá bằng với hiện nay, 1.897 đồng/kWh. Theo phương án này, tiền điện của các hộ sinh hoạt có mức sử dụng từ 201 kWh/tháng trở lên (khoảng 6,7 triệu hộ) giảm từ 8.000 đến 330.000 đồng/hộ/tháng. Trong khi đó, hộ sử dụng từ 0 đến 200 kWh/tháng (khoảng 18,6 triệu hộ) có tiền điện phải trả tăng từ 17.000 đến 36.000 đồng/hộ/tháng. Số tiền ngân sách hỗ trợ cho hộ nghèo và hộ chính sách xã hội tăng lên do giá điện của bậc 1 được điều chỉnh tăng.
Với phương án 2, cơ cấu biểu giá điện sinh hoạt bao gồm 3 bậc (thay vì 6 bậc như hiện hành), trong đó giá điện bậc 1 (từ 0 – 100 kWh); bậc 2 mới từ 101 – 400 kWh; bậc 3 mới từ 401 kWh trở lên.
Theo phương án này, tiền điện phải trả của các hộ sinh hoạt có mức sử dụng điện từ 301 kWh/tháng trở lên (khoảng 3,1 triệu hộ) giảm 45.000 – 62.000 đồng/hộ/tháng. Trong khi đó, hộ sử dụng 0 – 300 kWh/tháng (khoảng 22,3 triệu hộ) tăng trả tiền điện từ 4.000 đến 30.000 đồng/hộ/tháng. Số tiền ngân sách hỗ trợ cho hộ nghèo và hộ chính sách xã hội tăng lên do giá điện của bậc 1 được điều chỉnh tăng.
Phương án 3 có cơ cấu biểu giá điện sinh hoạt gồm 4 bậc thang (thay vì 6 bậc thang như hiện hành), trong đó giá điện bậc 1 mới từ 0 – 100 kWh; bậc 2 mới 101 -300 kWh; bậc 3 mới 301 – 600 kWh; bậc 4 từ 601 kWh trở lên.
Theo phương án này, tiền điện phải trả của các hộ sinh hoạt có mức sử dụng điện 51-100, 201-300 và 301-400 kWh/tháng (khoảng 10,3 triệu hộ) giảm từ 267 đến 32.000 đồng/hộ/tháng, của hộ sử dụng từ 0-50, 101-200 và từ 401 kWh/tháng trở lên (khoảng 15,3 triệu hộ) tăng từ 1.000 đến 105.000 đồng/hộ/tháng. Số tiền ngân sách hỗ trợ cho hộ nghèo và hộ chính sách xã hội tăng lên do giá điện của bậc 1 được điều chỉnh tăng.
Phương án 4 có cơ cấu biểu giá điện sinh hoạt, gồm 5 bậc, với 2 kịch bản. Trong đó, ở kịch bản 1, giá điện bậc 1 (cho 0 – 100 kWh) giữ nguyên như mức giá bậc 1 theo biểu giá hiện hành, bậc 2 mới từ 101 – 200 kWh; bậc 3 mới từ 201 – 400 kWh; bậc 4 mới từ 401 – 700 kWh; bậc 5 từ 701 kWh trở lên. Ưu điểm của kịch bản này là người dân dễ hiểu, do giảm từ 6 bậc xuống còn 5 bậc. Ghép các bậc lại với nhau để tăng khoảng cách mức tiêu thụ điện giữa các bậc và nới rộng khoảng cách mức tiêu thụ của bậc cao hơn nhằm phản ánh tình hình thực tế tiêu thụ điện và hạn chế được một phần tiền điện phải trả tăng cao trong những tháng đổi mùa.
Số tiền ngân sách hỗ trợ cho hộ nghèo và hộ chính sách xã hội không thay đổi so với hiện hành. Mức tăng giá giữa các bậc là hợp lý, chênh lệch giữa bậc đầu và bậc cuối cùng là 2 lần, phù hợp với xu thế chung của các nước trên thế giới như Nam California (Mỹ) là 2,2 lần, Hàn Quốc (3 lần), Lào (2,88 lần); Thái Lan (1,65 lần).
Trong khi đó, nhược điểm là tiền điện các hộ sinh hoạt có mức sử dụng điện từ 701 kWh/tháng trở lên (khoảng 0,5 triệu hộ, chiếm 1,8% tổng số hộ) phải trả tăng thêm 29.000 đồng/hộ/tháng, tương ứng khoảng 1,1% tổng số tiền điện phải trả.
Kịch bản 2, giá bán lẻ điện bình quân cho sinh hoạt không đổi. Bậc 1 và bậc 2 được gộp với giá điện giữ nguyên theo bậc 1 nhằm đảm bảo ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho các hộ nghèo, hộ chính sách xã hội không thay đổi. Cùng với đó, phần doanh thu thiếu được bù vào bậc trên 700 kWh. Ngoài ra, giá điện của bậc 201 – 400 kWh được gộp theo giá bình quân của bậc 4 (201 – 300 kWh) và bậc 5 (từ 301 – 400 kWh) của giá điện cũ.
Ngoài ưu điểm giống như kịch bản 1, phương án này còn có mức chênh lệch giữa bậc đầu và bậc cuối cùng thấp hơn, chỉ 1,86 lần.
Trong khi đó, nhược điểm là tiền điện các hộ sinh hoạt có mức sử dụng điện từ 200 – 300 kWh/tháng (khoảng 3,6 triệu hộ) và từ 701 kWh/tháng trở lên (khoảng 0,5 triệu hộ) phải trả tăng thêm 6.000 – 14.000 đồng/hộ/tháng (các nhóm khách hàng khác được giảm tiền điện phải trả). Mức tăng giá giữa các bậc là không đồng đều.
Sau khi đánh giá từng phương án, Bộ Công Thương kiến nghị lựa chọn phương án 5 bậc, kịch bản 1 để áp dụng.
Trước đó, EVN thông tin, cơ cấu và sản lượng điện của khách hàng sinh hoạt sản lượng điện 2018 cụ thể như sau: bậc 2-4 (từ 51 kWh – 300 kWh) khoảng 72,6% khách hàng tương ứng với 60% sản lượng, bậc 6 từ 400 kWh trở lên khoảng 6,7% khách hàng tương ứng với 27% sản lượng. Trong đó, khách hàng có mức sản lượng từ 701 kWh trở lên chiếm 1,7% nhưng sản lượng tương ứng khoảng 13%.
Theo Người Đồng Hành