Đâu là yếu tố thúc đẩy ngân hàng số phát triển, thành công tại Đông Nam Á?
Hiện nay, ngân hàng số đang ngày càng hiện diện thành công trên toàn thế giới. Công nghệ chính là yếu tố mang đến thành công cho ngân hàng số, sự tiện lợi, trải nghiệm khách hàng vượt trội đã thúc đẩy tăng trưởng, sự hài lòng của người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Cũng có có nhiều ngân hàng kỹ thuật số thành công. Tại Châu Á, Ấn Độ là quốc gia dẫn đầu về ngân hàng số, đặc biệt là phục vụ cộng đồng chưa được tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, có rất nhiều ngân hàng kỹ thuật số ở Ấn Độ, mỗi ngân hàng đều đáp ứng nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp, người tiêu dùng.
Có thể thấy, Ngân hàng số ở Philippines, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam đã rất thành công tiếp cận cộng đồng chưa có tài khoản ngân hàng. Các ngân hàng số ở khu vực này đang có doanh thu thuộc hàng cao nhất trên thế giới. (Ảnh minh họa) |
Ngân hàng truyền thống chuyển đổi số để không “thụt lùi” so với ngân hàng số
Ở Đông Nam Á, ngân hàng số đang ngày càng mở rộng tầm ảnh hưởng. Theo đó, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam đã thành công trong việc tiếp cận cộng đồng chưa có tài khoản ngân hàng. Những ngân hàng số khu vực này đang có doanh thu thuộc hàng cao nhất trên thế giới.
Các cơ quan quản lý cũng đã phê duyệt giấy phép ngân hàng số và các ngân hàng truyền thống đang tìm kiếm quan hệ đối tác với những công ty fintech để có thể cung cấp dịch vụ tài chính tích hợp. Và Singapore chính là quốc gia có mức doanh thu ngân hàng kỹ thuật số lớn nhất trong khu vực. Tuy nhiên, theo một báo cáo phân tích của Bloomberg cho hay, doanh số bán hàng chậm lại của nước này đang tạo điều kiện cho những nước láng giềng bắt kịp.
Nathan Naidu - đây là nhà phân tích nghiên cứu vốn cổ phần ở Bloomberg Intelligence có giải thích rằng doanh số dịch vụ tài chính kỹ thuật số của Singapore có thể tăng trung bình 8,3% hàng năm từ năm 2022-2025. Tuy nhiên thì tăng trưởng doanh thu có thể giảm xuống còn 3,3% trong thời gian 5 năm tới, làm giảm đi mức đóng góp của Singapore cho khu vực từ 34% xuống còn khoảng 15%.
PwC cho biết, việc hạ thấp các rào cản đối với việc số hóa đối với các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy các dịch vụ tài chính kỹ thuật số vì phần lớn các doanh nghiệp Đông Nam Á là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu hiểu biết cần thiết về kỹ thuật số và lợi ích của nó. (Ảnh minh họa) |
Nathan Naidu cho biết, các ngân hàng truyền thống trong khu vực đang vẫn ở vị thế tương đối tốt và có thể bảo vệ thị phần của mình khi các ngân hàng số tiếp tục nổi lên và phát triển. Mặc dù vậy thì các ngân hàng truyền thống buộc cũng phải tiến hành đẩy nhanh quá trình chuyển đổi kỹ thuật số các sản phẩm, dịch vụ và hoạt động của họ bởi trong thời kỳ dịch bệnh COVID-19, các biện pháp giãn cách xã hội, phong tỏa đã làm thay đổi đi hành vi của người tiêu dùng.
Có nhiều ngân hàng, đặc biệt là ở Indonesia đã thành lập ngân hàng số của riêng mình với tư cách là công ty con hoặc phát triển nền tảng ngân hàng ảo tiên tiến.
Theo nhà phân tích của Bloomberg Intelligence, trên khắp Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines và Việt Nam thì các ngân hàng kỹ thuật số thường nhắm đến phân khúc những cá nhân chưa có tài khoản ngân hàng và chưa được tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng, hàng triệu công ty siêu nhỏ, nhỏ và vừa đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng. Chính vì thế, các ngân hàng số có thể lấp đầy khoảng trống thị trường bởi vì các ngân hàng truyền thống ở trong khu vực chủ yếu tập trung vào các tài khoản doanh nghiệp có rủi ro thấp hơn.
Và điều đó cũng cho thấy, các ngân hàng truyền thống chậm số hóa có nguy cơ mất khách hàng vào tay các ngân hàng khác dù là truyền thống hay kỹ thuật số, có thể cung cấp dịch vụ tập trung vào khách hàng và hợp lý hơn.
Cụ thể, tại Singapore, các ngân hàng địa phương đương nhiệm DBS, OCBC và UOB cũng đã sẵn sàng bảo vệ thị phần tiền gửi trong nước của họ và thúc đẩy sự tăng trưởng tài sản sau khi số hóa thành công các dịch vụ trong thời gian phong tỏa vì dịch bệnh COVID-19.
Và khách hàng cũng có nhiều khả năng duy trì tài khoản chính với một ngân hàng truyền thống, sử dụng ngân hàng số cho tài khoản phụ hoặc là cấp ba của họ.
Ở Đông Nam Á, ngân hàng số đang ngày càng mở rộng tầm ảnh hưởng. Theo đó, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam đã thành công trong việc tiếp cận cộng đồng chưa có tài khoản ngân hàng. Những ngân hàng số khu vực này đang có doanh thu thuộc hàng cao nhất trên thế giới. (Ảnh minh họa) |
Khung pháp lý ngày càng tạo điều kiện cho ngân hàng số phát triển
Có thể thấy, cả ngân hàng truyền thống và ngân hàng số đều đang đứng trước cơ hội mở rộng mạng lưới khách hàng trên khắp Đông Nam Á khi mà nơi đây có khoảng 70% dân số chưa có tài khoản ngân hàng. Và khu vực này cũng chính là nơi có hơn 70 triệu công ty siêu nhỏ, nhỏ và vừa đang thiếu hụt nguồn vốn lớn. Bên cạnh việc có sẵn các giải pháp dễ sử dụng, tập trung vào khách hàng và tiếp cận các vùng nông thôn xa xôi nhất thì cung cấp giáo dục tài chính cho các cộng đồng đó là điều quan trọng. Vai trò của các cơ quan quản lý trong việc đảm bảo các dịch vụ ngân hàng số luôn tuân thủ quan trọng như thế nào?
Các nhà phân tích cho biết, chính sách của mỗi quốc gia là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển ngân hàng số tại Đông Nam Á. Các quy định và chính sách cung cấp khuôn khổ hỗ trợ cho phép các ngân hàng kỹ thuật số mở rộng quy mô.
Những cơ quan quản lý tại Singapore, Malaysia, Philippines và sắp tới là Thái Lan đã đưa ra các khung pháp lý ngân hàng số tiến bộ, trong đó bao gồm cả chế độ cấp phép. Mặc dù vậy thì trong những năm đầu, tài sản mà ngân hàng có thể nắm giữ thường bị giới hạn để cân bằng giữa đổi mới chính sách với người bảo vệ người tiêu dùng. Hơn thế, ở Malaysia, yêu cầu chính của giấy phép là thúc đẩy tài chính toàn diện. Và điều này sẽ đảm bảo rằng năm ngân hàng đã giành được giấy phép vào năm ngoái sẽ tập trung vào việc tiếp cận các cộng đồng chưa có dịch vụ ngân hàng, chưa có dịch vụ ngân hàng.
Có thể thấy, cả ngân hàng truyền thống và ngân hàng số đều đang đứng trước cơ hội mở rộng mạng lưới khách hàng trên khắp Đông Nam Á khi mà nơi đây có khoảng 70% dân số chưa có tài khoản ngân hàng. (Ảnh minh họa) |
Tuy nhiên thì Indonesia không có khuôn khổ kỹ thuật số riêng biệt, các ngân hàng kỹ thuật số phải tuân theo các quy tắc tương tự như những ngân hàng truyền thống. Bất chấp điều này thì lĩnh vực ngân hàng kỹ thuật số của đất nước đang bùng nổ với doanh thu dịch vụ tài chính kỹ thuật số dự kiến đạt mức 8,6 tỷ USD vào năm 2025.
Cơ chế quản lý thông thoáng của Indonesia cũng đã cắt giảm tình trạng quan liêu, giảm bớt những vấn đề pháp lý đau đầu đối với những người mới tham gia như là GoTo hoặc Grab. Những quy tắc sở hữu nước ngoài mới, tự do hơn của Indonesia cũng giúp thu hút nhiều công ty công nghệ lớn ở nước ngoài đầu tư vào việc xoay chuyển các ngân hàng nhỏ hơn đang gặp khó khăn của đất nước.
Thúc đẩy tăng trưởng ngân hàng số trong tương lai
PwC cho biết, việc hạ thấp các rào cản đối với việc số hóa đối với các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy các dịch vụ tài chính kỹ thuật số vì phần lớn các doanh nghiệp Đông Nam Á là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu hiểu biết cần thiết về kỹ thuật số và lợi ích của nó, đồng thời không đủ khả năng chi trả các chi phí chuyển đổi liên quan.
PwC cũng dự đoán các khoản đầu tư tích cực của các ngân hàng trung ương để phát triển bằng chứng khái niệm về tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương nhằm tạo điều kiện thanh toán xuyên biên giới với phí giao dịch thấp hơn.
Để các dịch vụ thanh toán kỹ thuật số tạo ra tác động lớn, điều quan trọng là phải tập trung hơn vào khả năng tiếp cận, tính đơn giản và khả năng chi trả, đồng thời vượt qua rào cản về niềm tin. (Ảnh minh họa) |
PwC cho biết: “Để các dịch vụ thanh toán kỹ thuật số tạo ra tác động lớn, điều quan trọng là phải tập trung hơn vào khả năng tiếp cận, tính đơn giản và khả năng chi trả, đồng thời vượt qua rào cản về niềm tin. Hơn thế, các doanh nghiệp trong ngành trước tiên cần phải hiểu các xu hướng lớn toàn cầu đang định hình lại tương lai của thanh toán, trước khi bắt đầu đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình trong tương lai”./.