PGS,TS Phạm Duy Đức.

PV: Tròn 80 năm trước, Đảng ta đưa ra bản Đề cương về Văn hoá Việt Nam và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng tháng 2/1943. Vì sao bản Đề cương này được coi là một văn kiện lịch sử vô giá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Việt Nam và sự phát triển văn hóa của đất nước, thưa PGS?

PGS, TS Phạm Duy Đức: Bởi vì, bối cảnh ra đời của bản Đề cương này là vào đầu những năm 40 của thế kỷ 20, khi chủ nghĩa phát xít bắt đầu mở rộng chiến tranh. Từ năm 1941 đến năm 1943 phát xít Nhật đã chính thức nhảy vào Đông Dương và Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam khi ấy chịu cùng lúc “một cổ ba tròng” (thực dân Pháp, phát xít Nhật và chế độ phong kiến thuộc địa). Cả về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa đều chìm trong tình trạng nô dịch, người dân lao động bị bóc lột, bị áp đặt chính sách “ngu dân” nên hơn 95% dân số mù chữ, đời sống tinh thần hết sức nghèo nàn, bị đầu độc bởi văn hóa thực dân và phát xít. Tầng lớp trí thức nước nhà lúc ấy thì hoang mang, dao động và mất phương hướng; niềm tin vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, kể cả ý thức về truyền thống dân tộc bị nguội lạnh.

Nhà thơ Chế Lan Viên từng có câu thơ rất hay nói về tình cảnh ấy: “Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê” (bài thơ Người đi tìm hình của nước). Tinh thần yêu nước bị nhạt nhòa và chìm trong tâm lý nô lệ. 12 năm sau khi ra đời, đến thời điểm ấy, Đảng ta nhận thức rằng không thể làm cách mạng chính trị mà không quan tâm tới cách mạng văn hóa. Phải làm thế nào để khơi dậy động lực phát triển của dân tộc - tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự cường và thức tỉnh tinh thần dân tộc lên một tầm cao mới.

Nếu so sánh với thời điểm “đêm truớc” Cách mạng Tháng Mười Nga - khi nhà văn Nga vĩ đại Gorky viết “Bài ca chim báo bão” vào năm 1905 - thì ta thấy sau đó đã mở ra một thời kỳ vận động cách mạng ở nước Nga để dẫn đến Cách mạng tháng 10 thành công năm 1917. Có thể nói bản Đề cương về Văn hóa Việt Nam giống như “Bài ca chim báo bão”, nhưng không chỉ “báo bão” mà còn mở ra một thời kỳ lịch sử mới để thức tỉnh dân tộc dưới ánh sáng lãnh đạo của Đảng.

Lần đầu tiên Đảng ta đã xác định một cách cơ bản, có hệ thống những tư tưởng chiến lược về phát triển văn hóa trong thời kỳ mới, đặc biệt là đặt văn hóa như một bộ phận quan trọng của cách mạng; và sự nghiệp phát triển văn hóa ấy phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong rất nhiều hội thảo quốc gia, kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về Văn hóa Việt Nam, rất nhiều ý kiến của lãnh đạo Đảng, của các nhà khoa học đều khẳng định đây là một văn kiện có ý nghĩa chiến lược đặc biệt về phát triển văn hóa dân tộc, gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới.

PV: Với độ lùi thời gian 80 năm, theo PGS, giờ đây chúng ta có thể nhìn lại và đánh giá như thế nào về ý nghĩa thời đại, những giá trị cốt lõi về lý luận và thực tiễn, tầm ảnh hưởng của bản Đề cương về Văn hóa Việt Nam với sự nghiệp cách mạng Việt Nam?

PGS, TS Phạm Duy Đức: Giá trị thời đại của Đề cương đã kết tinh những tư tưởng cốt lõi, cơ bản của văn hóa, đó là: Văn hóa là một mặt trận; Đảng lãnh đạo văn hóa; phương châm vận động của văn hóa… Những giá trị ấy được khẳng định không chỉ trong Cách mạng Tháng Tám, mà còn tiếp tục trong 9 năm kháng chiến trường kỳ; các “binh chủng” văn hóa của chúng ta đã được tập hợp lại (văn chương, nghệ thuật, báo chí, đội ngũ trí thức khoa học…), sẵn sàng từ bỏ tất cả những danh vọng, lợi ích cá nhân, để đi theo cách mạng theo tiếng gọi của lương tri, của Tổ quốc, của nhân dân, vì chính nghĩa của dân tộc; vì khát vọng giải phóng dân tộc. Khi bước vào thời kỳ hòa bình ở miền Bắc, rồi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tư tưởng của bản Đề cương vẫn tiếp tục soi rọi và được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (7/1998) là một văn kiện mang tầm chiến lược ở thời kỳ mới, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; ở đây có sự kế thừa từ Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943.

Nhìn lại quá trình lãnh đạo văn hóa của Đảng ta có thể thấy chúng ta đã xử lý rất khéo léo mối quan hệ giữa chính trị, kinh tế và văn hóa. Đất nước càng phát triển thì càng phải giải quyết bài toán văn hóa. Trong đó đặc biệt quan tâm vấn đề xây dựng con người, chống sự tha hóa về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa XI Đảng ta đã đưa ra quan điểm: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

Theo quan sát của tôi, Đại hội XIII của Đảng đã tiếp nối mạch nguồn từ Đại hội XI qua Đại hội XII. Chúng ta xử lý tốt nhất có thể mối quan hệ giữa chính trị-kinh tế-văn hóa và xác định rõ chiến lược tổng thể phát triển của đất nước, trong đó: phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trọng tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

PV: Xin PGS phân tích rõ hơn về kết quả vận dụng ba nguyên tắc dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa của Đề cương về Văn hóa Việt Nam trong định hướng triển văn hóa của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo?

PGS, TS Phạm Duy Đức: Đề cương đã nhấn mạnh ba nguyên tắc cũng là ba phương châm vận động văn hóa. Dân tộc hóa là phải khẳng định lại các giá trị trong truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Quá trình lịch sử của dân tộc ta đã xây dựng được các giá trị văn hóa, bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần, là hồn cốt của dân tộc. Đồng thời phải bảo vệ các giá trị ấy trước những sóng gió của thời đại. Đấy là tinh thần độc lập dân tộc từ bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt đến ý chí chống xâm lược của nhà Trần; của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ…; cho đến thời đại Hồ Chí Minh là ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Yêu nước phải gắn liền với yêu truyền thống văn hóa dân tộc, mà các giá trị văn hóa dân tộc là khởi điểm của tinh thần yêu nước. Bất cứ một dân tộc nào, nếu bị mất ký ức thì dân tộc ấy sẽ diệt vong. Cho nên truyền thống văn hóa chính là “bộ gene di truyền” của dân tộc. Bộ gene di truyền này được tiếp nối, được bổ sung qua các thế hệ; nếu mất đi bộ gene di truyền này thì dân tộc đó sẽ thoái hóa. Dân tộc hóa, vì thế, đã chạm được vào trái tim của mọi người dân, cũng như khẳng định tinh thần quật khởi của dân tộc. Tinh thần dân tộc, ý thức dân tộc, lợi ích quốc gia, dân tộc phải thấm vào trong lĩnh vực văn hóa!

Với nguyên tắc khoa học hóa, trước một cuộc chuyển đổi của cách mạng, chúng ta phải tập trung xây dựng một nền văn hóa dân tộc, trong đó trình độ dân trí là cơ sở; trình độ khoa học kỹ thuật là các trụ cột để nâng nền văn hóa lên tầm mức cao hơn. Bác Hồ nói “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Dù phát triển kinh tế bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu không có văn hóa bác học, không có những trụ cột khoa học, nâng đỡ và người dân không hiểu biết về khoa học kỹ thuật, sống trong tình trạng u mê của mê tín dị đoan, của những lề thói cũ thì dân tộc không thể nào phát triển được. Trong thời cách mạng công nghiệp 4.0, mà tình trạng mê tín dị đoan nở rộ trở lại, đạo đức xã hội suy thoái, lòng người lại trơ lạnh… thì đó là điều báo động. Chúng ta phải phát triển dân tộc có lý trí, khôn ngoan, bản lĩnh trong quá trình hội nhập. Cho nên, giá trị khoa học hiện nay rất quan trọng, để chúng ta khắc phục những lề thói cũ đã lạc hậu trong văn hóa truyền thống. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã nhấn mạnh việc khắc phục những mặt yếu kém của người Việt và những thói hư tật xấu.

Về nguyên tắc đại chúng hóa, thời kỳ Đề cương văn hóa 1943 ra đời đã nhấn mạnh đưa văn hóa trở về với quần chúng, truyền bá trong công nhân, nông dân, người lao động khác. Trong thời đại ngày nay, nguyên tắc đại chúng đã được cụ thể hóa một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn thông qua đặc trưng của nền văn hóa mà Đảng ta đã xác định là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” với 4 đặc trưng: dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học. Dân chủ ở đây chính là đại chúng, văn hóa phải đáp ứng nhu cầu của nhân dân và người dân có cơ hội để tiếp cận, có quyền phát triển văn hóa của mình; hướng vào phục vụ cho con người, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập này, văn hóa không chỉ đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm mà còn hướng tới làm giàu bằng văn hóa, phát triển kinh tế trên cơ sở phát triển văn hóa (tức là các ngành công nghiệp văn hóa). Tất nhiên, phải đặc biệt quan tâm tới các cái giá trị nhân văn của sản phẩm công nghiệp văn hóa, đừng để mục tiêu lợi nhuận làm tha hóa con người bằng những sản phẩm yếu kém.

PV: Trong 80 năm qua, đời sống xã hội đã trải qua biết bao thay đổi, thăng trầm, nhưng dường như trong bất cứ giai đoạn và bối cảnh nào, Đề cương về Văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943 vẫn giữ nguyên giá trị. PGS có thể cho biết Đảng ta đã có các giải pháp phát huy hiệu quả giá trị của văn kiện này vì mục tiêu chấn hưng văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?

PGS, TS Phạm Duy Đức: Đảng ta khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển bền vững đất nước; nhấn mạnh văn hóa là nguồn lực nội sinh của dân tộc, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của dân tộc. Đây là tư tưởng rất lớn. Nguồn lực nội sinh ở đây chính là tinh thần dân tộc, ý thức dân tộc, tinh thần tự cường dân tộc đã kết tinh ở văn hóa. Khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội thì phải đầu tư cho văn hóa một cách tương xứng; phải xây dựng một nền kinh tế nhân văn, vì con người và chống lại sự suy thoái của con người. Trong bối cảnh hiện nay, phải tập trung xây dựng hệ giá trị quốc gia để làm điểm tựa khai thác sức mạnh đoàn kết của dân tộc, hướng vào phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu của hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Làm sao để có môi trường văn hóa nhân văn, nhân bản, nhân ái. Trong xã hội ngày nay, con người ai cũng muốn thành đạt nhưng thành đạt phải theo cách không gây phương hại cho xã hội. Những giá trị về con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị quốc gia phải tạo thành một thể thống nhất.

PV: Thưa PGS, bài học lớn nhất, bao trùm và xuyên suốt nhất của Đề cương về Văn hóa Việt Nam trong quá trình lịch sử 80 năm qua là gì?

PGS, TS Phạm Duy Đức: Theo tôi, muốn lãnh đạo văn hóa trong thời đại ngày nay thì Đảng phải đổi mới mạnh mẽ tư duy, để toàn Đảng ta, từ lãnh đạo cao cấp ở Trung ương cho tới cơ sở, phải nhận thức sâu sắc hơn nữa về vai trò, vị trí của văn hóa; đặc biệt chú ý tới công tác xây dựng văn hóa trong Đảng, văn hóa trong hệ thống chính trị. Điểm then chốt nhất là nhân cách của người lãnh đạo. Tại sao nhiều vụ án lớn vừa qua xuất hiện những bị can là lãnh đạo cao cấp? Người dân tin Đảng, tin chính quyền hay không phụ thuộc vào hành động của đội ngũ cán bộ. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa trọng nhân cách. Vì thế, truyền thống văn hóa dân tộc phải được tiếp nối; phải xây dựng bản lĩnh, nhân cách của các nhà hoạt động chính trị. Đảng ta đã có chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cao cấp, trước hết là quy định về nêu gương. Đây là điểm hết sức cơ bản, khi chấn chỉnh được thì sẽ tạo ra sức mạnh rất to lớn, lòng tin của người dân sẽ được củng cố; từ đó Đảng và Nhà nước khai thác được động lực tinh thần của nhân dân, để cùng đồng lòng dấn thân cống hiến cho sự phát triển bền vững đất nước.

PV: Xin trân trọng cảm ơn PGS!