ISSN-2815-5823

8 tháng xuất khẩu hơn 800 nghìn tấn phân bón

(KDPT) – Theo Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, 8 tháng năm 2021, xuất khẩu phân bón tăng mạnh cả khối lượng, kim ngạch và giá so với cùng kỳ năm 2020, với mức tăng tương ứng 19,2%, 46,7% và 23%, đạt 830.437 tấn, tương đương gần 295,91 triệu USD, giá trung bình đạt 356,3 USD/tấn.

Ảnh minh hoạ.

Xuất khẩu tăng mạnh

Phân bón của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Campuchia. Trong 8 tháng, xuất khẩu phân bón sang Campuchia đạt trên 354.336 tấn, tương đương trên 133,83 triệu USD, giá trung bình 377,7 USD/tấn, tăng mạnh cả khối lượng, kim ngạch và giá so với 8 tháng năm 2020, với mức tăng tương ứng 37%, 66% và 21%. Campuchia chiếm 42,7% trong tổng lượng và chiếm 45,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước.

Đứng sau thị trường chủ đạo Campuchia là thị trường Mozambique với mức tăng rất mạnh 482,3% về lượng và tăng 545% kim ngạch, giá cũng tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 38.759 tấn, tương đương 18,21 triệu USD, giá trung bình 470 USD/tấn; chiếm 4,7% trong tổng lượng và chiếm 6,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước.

Xuất khẩu sang thị trường Lào đạt 39.361 tấn, tương đương trên 15,7 triệu USD, giá 398,8 USD/tấn, tăng 34,8% về lượng, tăng 38,2% kim ngạch, giá tăng 2,5% so với cùng kỳ, chiếm 5% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước.

Nhìn chung, xuất khẩu phân bón 8 tháng đầu năm 2021 sang các thị trường chủ đạo bị tăng cả lượng và kim ngạch so với 8 tháng năm 2020.

Thế khó của doanh nghiệp

Giá phân bón thế giới đạt mức cao kỷ lục trong vòng gần 10 năm trở lại đây, nhưng các doanh nghiệp phân bón đang ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Với các doanh nghiệp phân bón trong nước, chi phí đầu vào được các chuyên gia dự báo sẽ có nhiều biến động trong thời gian tới. Chẳng hạn, với Đạm Phú Mỹ và Đạm Cà Mau, việc giá dầu thế giới và giá khí thiên nhiên đang tăng mạnh và liên tục trong thời gian qua sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí sản xuất của các đơn vị. Đặc biệt, tuần này giá dầu Brent chạm ngưỡng 80 USD/thùng được xem là mức cao nhất trong 3 năm qua. Thậm chí, mới đây, Ngân hàng Goldman Sachs nâng mức dự báo dầu thô Brent vào cuối năm nay lên mức 90 USD /thùng từ mức 80 USD /thùng dự báo trước đó. Ngoài ra, giá khí thiên nhiên tuần này cũng đạt mức 6,16 USD /mmBTU giao kỳ hạn tháng 11/2021. Trong khi tại Châu Âu, giá khí đốt tăng kỷ lục gấp 5 lần so với giá hồi 2019 đang đe dọa đến nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp sản xuất hóa chất, cung ứng điện, sản xuất phân bón ở khu vực này.

Trong quý 3/2021, các doanh nghiệp phân bón gánh chịu khoản chi phí vận hành tăng mạnh. Theo chia sẻ từ lãnh đạo Đạm Cà Mau, kể từ khi làn sóng dịch Covid 19 lần thứ 4 bùng phát đến nay, doanh nghiệp đã chi hơn 100 tỷ đồng để phòng chống dịch Covid 19 theo tinh thần “sản xuất 3 tại chỗ”. Ngoài ra, còn phải kể đến các chi phí liên quan đến lưu thông, vận chuyển, chậm giải phóng tàu, giải phóng kho,… tăng 15% do phát sinh liên quan đến hoạt động xét nghiệm, thông chốt, thông quan, chuyển khẩu tại chỗ…

Trong điều kiện hội nhập và liên thông giữa các thị trường hàng hóa trên thế giới hiện nay, bất kỳ diễn biến nào từ thế giới đều tác động, ảnh hưởng đến thị trường trong nước, trong đó có ngành hàng phân bón. Đạm Phú Mỹ, Đạm Cà Mau và một số doanh nghiệp phân bón khác đều là những doanh nghiệp có vốn chi phối của nhà nước, nên việc quản trị, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phải tuân thủ các qui định liên quan nhằm tối ưu hiệu quả hoạt động, cụ thể là việc định giá bán phải theo sát giá thị trường thế giới và khu vực. Đơn cử giá bán urea của các đơn vị, theo thông lệ, được xác định trên cơ sở giá FOB bình quân của một số thị trường chủ chốt, có ảnh hưởng lớn + hệ số điều chỉnh giá nội địa (r). Trường hợp, hệ số điều chỉnh giá không phù hợp, các đơn vị đều báo cáo, giải trình với đại diện chủ sở hữu và các cơ quan chủ quản liên quan..

Cụ thể, giá bán urea được tính theo công thức: giá FOB 4 thị trường + r (hệ số điều tiết nội địa) + C (các chi phí nội địa) nhưng hiện nay giá bán urea của doanh nghiệp trong nước chỉ gần tương đương giá FOB bình quân các thị trường quốc tế.

Có thể thấy khá rõ là sản xuất trong nước đang là chìa khóa để cân bằng lại giá phân bón, tránh tình trạng giá tăng phi mã như một số mặt hàng khác. Theo chia sẻ của một doanh nghiệp phân phối phân bón, giá FOB nếu muốn nhập về bán ở Việt Nam thành giá CIF thì cần cộng thêm 45-50 USD, chưa kể lợi nhuận của nhà nhập khẩu. Do đó, nếu không có doanh nghiệp sản xuất ure trong nước làm đối trọng, nông dân sẽ phải mua giá ure tối thiểu bằng giá FOB + 50 USD + lợi nhuận nhà nhập khẩu.

Biết là tăng giá bán có thể tác động lớn đến sản xuất của người nông dân và nông nghiệp. Tuy nhiên, theo các quy định hiện hành, doanh nghiệp sản xuất phân bón rất khó bán thấp hơn FOB bình quân của thị trường khu vực, bởi vậy giá thế giới tiếp tục tăng đồng nghĩa với các doanh nghiệp buộc phải tăng giá. Chỉ có điều biên độ tăng cao hay thấp còn phụ thuộc vào khả năng co kéo của các doanh nghiệp cũng như tác động của các chính sách vĩ mô.

Chiều ngược lại: khi giá FOB thế giới giảm, doanh nghiệp nội dù chưa giảm được chi phí đầu vào, giá đầu ra lỗ vẫn phải chịu. Đó là qui luật kinh tế thị trường, tình huống này thấy rất rõ trong khoảng đầu năm 2020.

Thực tế thị trường và biểu đồ giá trong thời gian tới cho thấy vai trò quan trọng của các doanh nghiệp phân bón chiếm thị phần lớn. Một mặt họ phải kiểm soát chi phí đầu vào đang tăng rất cao một mặt phải kiểm soát giá bán mới mong đồng hành được với người nông dân, cũng như góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong nước.

HIỂU MINH

Kinhdoanhvaphattrien.vn | 05/11/2023

eMagazine
kinhdoanhvaphattrien.vn | 13/05/2024