ISSN-2815-5823

Cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Hiểu rõ thách thức, vượt qua khó khăn

(KDPT) – Để bắt kịp và tiến vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thức 4 (I4.0) không hề đơn giản mà đang đặt ra nhiều thách thức. Trên thực tế, ứng dụng I4.0 cơ bản vẫn ở mức thấp. Việt Nam vẫn đang nỗ lực xây dựng một Chiến lược quốc gia I4.0, hiện trạng về thể chế, hạ tầng số, nguồn nhân lực ICT, thương mại điện tử, chính phủ điện tử – các cấu phần quan trọng để tham gia vào I4.0 của Việt Nam còn thể hiện nhiều bất cập và hạn chế.

>>> Bài học lãnh đạo từ những danh tướng

>>> Để cạnh tranh hãy học Bạch Thái Bưởi

Về khía cạnh thể chế, các chỉ số về chất lượng thể chế mặc dù đã có sự cải thiện nhưng vẫn đang ở mức thấp. Đơn cử như điểm số năng lực cạnh tranh 4.0, Việt Nam mới đạt 51,2 điểm trên thang điểm 100, xếp vị trí số 70/120 quốc gia. Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ được chỉ ra là kém và thể chế cho hệ sinh thái startup và thương mại điện tử chưa đầy đủ.

Theo báo cáo năm 2018 về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) mới công bố, trong tổng số 100 quốc gia được đánh giá, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có mức độ sẵn sàng cho I4.0 ở mức thấp, nhưng tiềm năng. Trong số các tiêu chuẩn nền tảng để đánh giá mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai thì các yếu tố về phát triển nguồn nhân lực và đổi mới sáng tạo công nghệ – liên quan trực tiếp đến quá trình chuẩn bị cho I4.0 của Việt Nam đều có điểm số thấp. Cụ thể: (i) Việt Nam chỉ xếp thứ 70/100 vềnguồn nhân lực, trong đó các chỉ số về lao động có chuyên môn cao, chất lượng đại học lần lượt xếp thứ 81/100 và 75/100; và (ii) Việt Nam chỉ xếp hạng 90/100 vềcông nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó, hạng 92/100 vềcông nghệnền tảng (Technology Platform), hạng 77/100 về năng lực sáng tạo. Nếu so sánh một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, chúng ta xếp sau Malaysia (xếp hạng thứ 23/100 về công nghệ và đổi mới sáng tạo và 21/100 về nguồn nhân lực), Thái Lan (41/100 về công nghệ và đổi mới sáng tạo, 53/100 về nguồn nhân lực) hay Philippines (59/100 công nghệ và đổi mới sáng tạo và 66/100 về nguồn nhân lực). Việt Nam chỉ xếp hạng gần tương đương Campuchia (có xếp hạng tương ứng 83/100 và 86/100).

Về tiềm năng sản xuất, đánh giá của WEF cho thấy mức độ sẵn sàng ứng dụng I4.0 của Việt Nam khá thấp, chỉ thuộc nhóm nước sơ khởi (Nascent). Cấu trúc sản xuất đạt 4,96/10 điểm (xếp hạng 48/100), Động lực sản xuất đạt 4,93/10 điểm (xếp hạng 53/100). Đi sâu vào từng chỉ tiêu thành phần, mức độ phức tạp của cấu trúc sản xuất chỉ xếp hạng 72 dù quy mô ngành chế tạo khá lớn (xếp hạng 17). Các chỉ tiêu thành phần của Động lực sản xuất cũng không được đánh giá cao: công nghệ và sáng tạo xếp hạng 90; nhân lực: hạng 70; thể chế: hạng 53 (Hiệu quả và hiệu lực chính phủ, Thượng tôn pháp luật); nguồn lực bền vững: hạng 87 trong I4.0. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017-2018 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), hai trụ cột liên quan tới KH&CN về Mức độ sẵn sàng công nghệ (Trụ cột thứ 9) và Đổi mới sáng tạo (Trụ cột thứ 11) có thứ hạng tương đối thấp (lần lượt là 79 và 71); trong đó các chỉ tiêu thành phần quan trọng nhìn chung đều rất yếu: Năng lực hấp thụ công nghệ: 99; Năng lực đổi mới sáng tạo: 79; Mức độ phức tạp của quy trình sản xuất: 87; Chất lượng của các tổ chức nghiên cứu khoa học: 90; Số lượng nhân lực KH&CN: 78; tỷ lệ bằng sáng chế và ứng dụng trên 1 triệu dân: 91; v.v… Xét về tiềm lực KH&CN, hơn 1/3 các tổ chức R&D hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ (35%); chủ yếu có quy mô nhỏ. Trong khi đó, các cơ sở đào tạo đại học của Việt Nam không được đánh giá cao trong các bảng xếp hạng của khu vực và thế giới.

Nhân lực KH&CN cũng là một chỉ tiêu quan trọng, đặc biệt là chỉ tiêu về nhân lực R&D. Số lượng nhân lực toàn thời gian tương đương (FTE), tổng số nhân lực R&D của Việt Nam chỉ là 61.663 người, bình quân 6,8 cán bộ/10.000 dân, mặc dù có cao hơn so với Indonesia và Philippines, nhưng thấp hơn nhiều so với Malaysia (17,9) và các nước đang phát triển và phát triển khác ở châu Á (Trung Quốc: 11; Singapore: 66,9). Hạn chế của nguồn nhân lực KH&CN còn được thể hiện qua thực trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng, đặc biệt khi so sánh tiêu chí này của Việt Nam với các nước trong cùng khu vực. Theo Báo cáo về “Vốn con người” của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2017, thứ hạng của Việt Nam về lao động có kỹ năng chỉ nằm trong nhóm trung bình thấp. Trong đó, lao động kỹ năng nghề bậc trung đứng gần cuối bảng xếp hạng (vị trí 128/130), lao động kỹ năng nghề bậc cao đứng vị trí 99/130 quốc gia. Nếu đây là những nhóm lao động then chốt để quyết định đến tăng trưởng NSLĐ thì rõ ràng, ở Việt Nam cần phải xác định đúng mục tiêu của giáo dục, cải tiến chất lượng đào tạo, mở rộng quy mô đào tạo, gắn đào tạo với nhu cầu của doanh nghiệp.

Đầu tư của ngân sách nhà nước (NSNN) cho hoạt động KH&CN vẫn còn khiêm tốn, tỷ lệ đầu tư cho KH&CN so với tổng chi NSNN và so với GDP đều có xu hướng giảm. Năm 2015, tổng chi cho R&D của Việt Nam đạt khoảng 17,39 nghìn tỷ đồng, tương đương 1,52% tổng chi NSNN và 0,41% của GDP. Như vậy, tổng đầu tư của Việt Nam cho KH&CN hằng năm vẫn dưới 1% GDP, thấp hơn Chiến lược về phát triển KH&CN đề ra. Trong khi đó, mức đầu tư của Trung Quốc năm 2010 là 2,2%

GDP, của Hàn Quốc là 4,5% GDP. Tổng chi quốc gia choR&D (GERD) của Việt Nam cũng thấp hơn so với thế giới (0,37% GDP, thấp hơn đáng kể so với Thái Lan (0,63%), Malaysia (1,13%), Singapore (2,20%). NSNN cũng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng chi quốc gia cho R&D của Việt Nam (56,7%), trong khi của khu vực doanh nghiệp là 41,8%. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, quốc gia nào có nền KH&CN càng phát triển thì tỉ trọng đầu tư cho KH&CN của khu vực ngoài nhà nước so với NSNN càng lớn. Chẳng hạn, tỷ trọng này khá cao ở các nước phát triển như tại châu Âu (EU28: 55%), Hàn Quốc (75,7%), Nhật Bản (75,5%).

Tốc độ đổi mới công nghệ cũng là một điểm yếu của Việt Nam. Xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017-2018 cho thấy trụ cột về Mức độ sẵn sàng công nghệ của Việt Nam chỉ xếp hạng 71/137, thấp hơn nhiều so với Singapore (14), Thái Lan (60). Trong đó, chỉ số thành phần về Mức độ sẵn có của công nghệ mới của Việt Nam chỉ được xếp hạng 112, Khả năng hấp thụ công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp xếp hạng 93, chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI xếp hạng 89. Vẫn còn tình trạng nhập khẩu các thiết bị, công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, kém hiệu quả. Theo kết quả điều tra “Công nghệ và cạnh tranh ngành chế biến, chế tạo giai đoạn 2009 – 2012”3, chỉ có khoảng 11% số doanh nghiệp đã phát triển những loại hình công nghệ mới. Điều tra của TCTK (2014) cũng cho thấy sự tham gia rất hạn chế của doanh nghiệp vào hoạt động R&D: chỉ có 6,23% số doanh nghiệp được điều tra có tham gia vào hoạt động R&D. Một nghiên cứu khác của Viện NCQLKTTW-WB (2012) cho thấy chỉ có khoảng 10% doanh nghiệp được điều tra có bộ phận R&D với khoảng 8-9 cán bộ nghiên cứu.

Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam cũng chủ yếu diễn ra giữa các doanh nghiệp trong nước. Vai trò lan tỏa công nghệ của doanh nghiệp FDI còn hạn chế, trong khi đây luôn được xem là một biện pháp hữu hiệu giúp các nước đang phát triển như Việt Nam nhanh chóng tiếp thu được công nghệ mới, hiện đại từ các đối tác nước ngoài, rút ngắn khoảng cách về năng lực công nghệ, trên cơ sở đó thúc đẩy tăng năng suất. Điều tra do Viện NCQLKTTW-TCTK-Đại học Copenhagen (2015) cho thấy chỉ có khoảng 4,5% doanh nghiệp được điều tra có hoạt động chuyển giao công nghệ từ khách hàng (liên kết ngược), và chỉ có khoảng 7% doanh nghiệp được điều tra có hoạt động chuyển giao công nghệ với các nhà cung cấp nước ngoài (liên kết xuôi).

Khu vực doanh nghiệp nhìn chung có trình độ công nghệ thấp, tuy nhiên tiềm năng ứng dụng I4.0 rất lớn. Nghiên cứu gần đây của Bộ Công thương về mức độ sẵn sàng tiếp cận I4.0 của doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp cho thấy một số doanh nghiệp đã bắt đầu ứng dụng các công nghệ điển hình của I4.0 như điện toán đám may, công nghệ thiết bị đầu cuối, in 3D, phân tích và quản trị dữ liệu lớn (Big data), v.v… Xu hướng sử dụng các công nghệ này cũng tăng lên theo quy mô doanh nghiệp.

Nguồn: Viện Quản lý Kinh tế Trung ương



Kinhdoanhvaphattrien.vn | 05/11/2023

eMagazine
 
kinhdoanhvaphattrien.vn | 17/12/2025