ISSN-2815-5823
MINH THÀNH
Chủ nhật, 09h59 08/10/2023

Năm 2024 Chính phủ dự kiến vay hơn 676.000 tỷ đồng

(KDPT) - Năm 2024, Chính phủ dự kiến vay hơn 676.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 27,5 tỷ USD, để bù đắp bội chi, trả nợ gốc và vay về cho vay lại.

Báo cáo về tình hình nợ công năm 2023, dự kiến năm 2024 và sơ kết 3 năm kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 vừa được Chính phủ vừa gửi tới Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Ảnh minh họa.

Tổng trả nợ của Chính phủ năm 2023 ước đạt 311.537 tỷ đồng

Năm 2023, Quốc hội phê chuẩn tổng mức vay của ngân sách trung ương là 621.015 tỷ đồng, trong đó vay để bù đắp bội chi ngân sách trung ương là 430.500 tỷ đồng (bằng 4,18% GDP), vay để trả nợ gốc ngân sách trung ương là 190.515 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, Chính phủ phê duyệt vay về cho vay lại vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài của Chính phủ là 23.394 tỷ đồng.

Trên cơ sở thực hiện 9 tháng đầu năm, Chính phủ dự kiến nhu cầu huy động cả năm 2023 ước đạt 604.379 tỷ đồng (bằng 93,8% kế hoạch), trong đó vay về cho vay lại là 14.626 tỷ đồng (62,5% kế hoạch).

Vay trong nước dự kiến sẽ huy động khoảng 547.085 tỷ đồng, trong đó chủ yếu phát hành trái phiếu chính phủ. Kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ bình quân đạt mức 12,6 năm, cao hơn mục tiêu Quốc hội đề ra là từ 9-11 năm tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021.

Kỳ hạn còn lại bình quân của danh mục trái phiếu chính phủ là 9 năm, giảm 0,14 năm so với năm 2022; lãi suất phát hành bình quân là 3,7-4%/năm, tăng 0,22-0,52 điểm phần trăm so với năm 2022 (3,48%/năm).

Theo báo cáo, tổng trả nợ của Chính phủ năm 2023 ước đạt 311.537 tỷ đồng, trong đó trả nợ trực tiếp ước đạt 279.742 tỷ đồng, bằng 95,3% dự toán; trả nợ vay nước ngoài về cho vay lại ước đạt 31.795 tỷ đồng, bằng 93,8% kế hoạch.

Bên cạnh đó, Chính phủ dự kiến các chỉ tiêu nợ đến cuối năm 2023 nằm trong giới hạn trần và ngưỡng cảnh báo an toàn đã được Quốc hội quyết định. Cụ thể: Nợ công/GDP ước thực hiện 39-40%; nợ Chính phủ/GDP 36-37%; nợ nước ngoài của quốc gia/GDP 37-38%. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/thu ngân sách nhà nước 20-21%, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia/kim ngạch xuất khẩu 7-8%.

Căn cứ các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2023, kế hoạch năm 2024 của Chính phủ trình cấp có thẩm quyền, dự kiến mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2024 khoảng 6-6,5%. Dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2024 là 1.650 nghìn tỷ đồng, bội chi ngân sách nhà nước khoảng 3,6% GDP, nhu cầu vay, trả nợ để triển khai dự toán ngân sách nhà nước năm 2024.

Đối với việc huy động vốn, tổng nhu cầu vay của Chính phủ năm 2024 là 676.057 tỷ đồng. Bao gồm, vay bù đắp bội chi ngân sách trung ương là 372.900 tỷ đồng; vay để trả nợ gốc của ngân sách trung ương khoảng 287.034 tỷ đồng; vay về cho vay lại là 16.123 tỷ đồng.

Nguồn huy động kết hợp linh hoạt các công cụ phát hành trái phiếu chính phủ, vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài và trong trường hợp cần thiết sẽ huy động từ các nguồn tài chính hợp pháp khác.

Căn cứ danh mục nợ Chính phủ hiện hành, nhiệm vụ huy động vốn vay của Chính phủ năm 2024, Chính phủ dự kiến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 395.874 tỷ đồng, trong đó trả nợ gốc khoảng 287.034 tỷ đồng và trả nợ lãi khoảng 108.840 tỷ đồng.

Nghĩa vụ trả nợ vay về cho vay lại khoảng 58.245 tỷ đồng (trả gốc khoảng 50.502 tỷ đồng, trả lãi khoảng 7.743 tỷ đồng).

Bên cạnh đó, dự kiến đến cuối năm 2024, chỉ tiêu trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước đảm bảo trong mức trần 25% Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết 23/2021/QH15.

Đặc biệt, trong trường hợp tăng trưởng GDP tích cực đạt chỉ tiêu Quốc hội giao, dự báo đến cuối năm 2024, dư nợ công khoảng 39-40% GDP, nợ Chính phủ khoảng 37-38% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 38-39% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước khoảng 24-25%.

Ngân sách địa phương năm 2024 theo tính toán của Chính phủ dự kiến bội chi 26.500 tỷ đồng. Ảnh minh họa.

Nghiên cứu bổ sung một số giải pháp mới để hoàn thành kế hoạch vay

Báo cáo nêu rõ, trong bối cảnh nhu cầu nguồn vốn lớn, để đáp ứng các cam kết về việc đưa mức phát thải các-bon ròng bằng 0 vào năm 2050, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, các cam kết về phát triển bền vững, bao trùm, chống biến đổi khí hậu, sự dịch chuyển trong ưu tiên của các nhà tài trợ, tổ chức cho vay, Chính phủ kiến nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến và cho phép trình Quốc hội nghiên cứu bổ sung một số giải pháp mới.

Cụ thể, rà soát, sửa đổi các quy định có liên quan đến Luật Đầu tư công để hạn chế chuyển nguồn NSNN sang năm sau để tránh bị động trong công tác huy động vốn và nâng cao hiệu quả vay nợ. Quy định rõ việc bố trí vốn chuẩn bị các dự án đầu tư gối đầu cho giai đoạn sau, trong đó nghiên cứu sửa đổi khoản 2, Điều 89, Luật Đầu tư công để có thể vay vốn ODA đầu tư một số tuyến đường sắt nhẹ, đường sắt tốc độ cao.

Theo Chính phủ, các dự án này đều có tổng mức đầu tư lớn, thời gian triển khai thực hiện dài, trên 2 kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn liên tiếp. Vì vậy, việc quy định giá trị tổng mức đầu tư của các chương trình, dự án phải thực hiện trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn sau không vượt quá 20% tổng số vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn trước của Bộ, cơ quan trung ương, địa phương đó sẽ hạn chế việc triển khai các dự án tuyến đường sắt nhẹ, đường sắt tốc độ cao.

Giải pháp Chính phủ kiến nghị còn có nghiên cứu, sửa đổi Luật Quản lý nợ công, Luật Ngân sách nhà nước, Nghị định số 97/2018/NĐ-CP và Nghị định số 79/2021/NĐ-CP của Chính phủ liên quan đến: Tài sản đảm bảo cho đơn vị sự nghiệp công lập; tăng thêm hạn mức vay của địa phương; rà soát tỷ lệ vay lại, cách thức cũng như tiêu chí về tỷ lệ cho vay lại 10% tại Nghị định số 79/2021 /NĐ-CP của Chính phủ đối với trường hợp đặc thù.

Cạnh đó là đơn giản hóa thủ tục cho vay đối với đơn vị sự nghiệp công lập; điều kiện, quy trình xử lý nợ quá hạn, nợ xấu. Đồng thời, đối với các nội dung liên quan đến các vướng mắc về sử dụng tài sản của nhóm đơn vị sự nghiệp công lập làm tài sản bảo đảm cần nghiên cứu, sửa đổi Luật Đất đai.

“Nghiên cứu để trình cấp có thẩm quyền sửa đổi Luật Ngân sách nhà nước theo hướng: Quốc hội quyết định tổng mức vay, bội chi NSĐP và từng địa phương, trong điều hành Chính phủ được điều chỉnh giữa các địa phương có khả năng thực hiện, nhưng không làm tăng tổng mức vay của NSĐP đã được Quốc hội quyết định để địa phương sử dụng có hiệu quả nguồn được phép vay trong năm”, Chính phủ kiến nghị.

Nghiên cứu phương thức huy động vốn mới để tạo nguồn lực cho xây dựng kết cấu hạ tầng, năng lượng, cam kết phát thải ròng về 0 và biến đổi khí hậu, cũng là nội dung được Chính phủ đề cập.

Nội dung cụ thể là tiếp tục nghiên cứu để phát triển đa dạng sản phẩm, hàng hoá trên thị trường trái phiếu Chính phủ (TPCP) gồm cả sản phẩm TPCP xanh căn cứ vào sự phát triển của thị trường trong từng giai đoạn, phù hợp với nhu cầu của nhà đầu tư. Nghiên cứu đưa TPCP vào rổ chỉ số trái phiếu quốc tế để thu hút thêm các quỹ đầu tư, các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài.

Đổi mới cơ chế huy động nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài theo hướng xây dựng một số chương trình đầu tư công để thực hiện một số dự án quan trọng, có tính lan tỏa trong phạm vi cả nước hoặc một số vùng theo từng mục tiêu ưu tiên thay cho cách tiếp cận dự án riêng lẻ, phân tán.

Chuyển dịch từ vay cho chương trình, dự án sang phương thức vay hỗ trợ ngân sách để gia tăng tính chủ động, hiệu quả trong sử dụng vốn vay của Chính phủ theo đúng tinh thần tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội và định hướng thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2021-2025.

Về quản lý, Chính phủ kiến nghị thay vì thực hiện mục tiêu kỳ hạn theo chỉ tiêu kỳ hạn phát hành TPCP bình quân trong từng năm, thực hiện kiểm soát theo thời gian đáo hạn bình quân danh mục TPCP để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.

Kinhdoanhvaphattrien.vn | 05/11/2023

eMagazine
kinhdoanhvaphattrien.vn | 09/05/2024