Thịt mỡ – dưa hành – câu đối đỏ/ Cây nêu - tràng pháo – bánh chưng xanh. Câu đối trên đã quá quen thuộc với người Việt, và bánh chưng xanh là một trong những “chỉ dấu” đầu tiên của Tết đã về. Nồi bánh chưng sôi đang thơm lừng trong bếp như gói gọn cả một mùa xuân. Hơn thế, bánh chưng cũng có cho mình triết lý nhân sinh đầy đủ, thể hiện nét văn hóa đặc trưng của người Việt. Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng của Việt Nam. Theo truyền thuyết, bánh chưng có từ thời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân, vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: “Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”. Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy thần bảo: “Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”. Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi. Đến hẹn, các lang đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh Dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7. Từ đó, cứ đến Tết Nguyên đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.

Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Những chiếc bánh đẹp, dày dặn, vuông thành sắc cạnh được dành riêng để bày bàn thờ cúng ông bà tổ tiên, bánh nhỏ gói riêng cho trẻ con như món quà đầu năm... Bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của nền văn hóa lúa nước. Bên cạnh đó, bánh chưng còn mang những ý nghĩa sâu xa về triết lý nhân sinh của người Việt xưa cho rằng chiếc bánh trưng còn tượng trưng cho Ngũ hành trong triết lý phương Đông, tương sinh-tương khắc hài hòa, bổ trợ cho nhau trong tổng thể vuông vức: Vàng ngà hạt đỗ (Thổ), bùi bùi thoảng hương, đỏ thịt lợn chín (Hỏa), trắng màu nếp mới (Kim), xanh mát lá dong (Mộc); ngoài cùng là những chiếc lạt được nhuộm đen bởi lá dong luộc chín (Thủy). Hạt đỗ màu vàng ứng với hành Thổ trong thế đất vuông, được bao bọc nằm ở trung tâm, tượng trưng cho con người ở vị trí quan trọng nhất, là trung tâm của trời đất trong Ngũ hành. Ngay trong quá trình luộc chín bánh cũng thể hiện triết lý Ngũ hành của người xưa: Người ta dùng nước để luộc bánh (Thủy), lửa (Hỏa) được đốt từ củi (Mộc), dùng nồi luộc bằng kim loại (Kim) đặt lên ba ông đầu rau (Thổ). Với nhịp sống hiện đại ngày nay, bánh chưng vẫn là món ẩm thực trong mâm cỗ ngày Tết không thể thiếu với các gia đình Việt Nam.

Chiếc bánh chưng vẫn những nguyên liệu như cả vài ngàn năm vẫn thế, vẫn lá dong để gói gạo nếp, nhân đỗ xanh và thịt lợn, lạt mềm để buộc đã trở thành nét văn hóa ẩm thực tinh túy không thể thiếu trong đời sống văn hóa truyền thống của dân tộc Việt mỗi dịp năm mới gõ cửa.