Bỏ đề xuất sở hữu chung cư có thời hạn trong Luật Nhà ở sửa đổi
Bộ Xây dựng vừa có báo cáo gửi Thủ tướng về việc tiếp thu, giải trình ý kiến Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội về dự án Luật Nhà ở (sửa đổi).
Liên quan đến vấn đề sở hữu nhà chung cư có thời hạn, cơ quan này cho biết báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Ủy ban Pháp luật đều đề nghị không quy định về thời hạn sở hữu nhà chung cư.
Trên cơ sở kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Xây dựng nhận thấy đây là vấn đề nhạy cảm, có tác động lớn đến xã hội và còn những ý kiến chưa thống nhất. Do đó, Bộ Xây dựng đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là không quy định về sở hữu nhà chung cư có thời hạn trong dự thảo Luật Nhà ở (bỏ các Điều 25, 26 quy định về xác lập và chấm dứt quyền sở hữu nhà chung cư; xử lý nhà chung cư khi chung cư bị phá dỡ).
"Tuy nhiên trong dự thảo Luật sẽ có bổ sung, làm rõ các nội dung về thời hạn sử dụng, các trường hợp phá dỡ nhà chung cư, làm rõ trách nhiệm các chủ thể có liên quan khi phá dỡ, cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư để có cơ sở xử lý, giải quyết tháo gỡ các trường hợp đang gặp khó khăn, vướng mắc trên thực tế hiện nay", Bộ Xây dựng đề xuất.
Trước đó, về nội dung quy định quyền sở hữu nhà chung cư, thời hạn sở hữu nhà chung cư do cơ quan chủ trì soạn thảo (Bộ Xây dựng) đưa ra 2 phương án: phương án 1 bổ sung quy định mới về sở hữu nhà chung cư; phương án 2 , không quy định quyền sở nhà chung cư.
Trên cơ sở này, Chính phủ đã quyết định báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội lựa chọn phương án có quy định về sở hữu chung cư có thời hạn trong dự thảo luật.
Tuy nhiên, căn cứ kết luận thảo luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và góp ý dự thảo luật nhà ở (sửa đổi), cơ quan này kiến nghị Chính phủ không quy định thời hạn sở hữu nhà chung cư như Dự thảo.
Một số chuyên gia cho rằng, nếu so sánh, giá bán căn hộ nhà chung cư sở hữu có thời hạn tuy thấp hơn giá bán căn hộ nhà chung cư sở hữu vĩnh viễn khoảng trên dưới 20%, nhưng thực tế chưa thật sự hấp dẫn và chưa phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của số đông người tiêu dùng.