Kỳ 2: Vị thế, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
Kỳ 1: “Khát vọng” của dân tộc Việt Nam |
Trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hợp tác xã đã đóng vai trò chủ yếu của nền kinh tế. Bước sang giai đoạn đổi mới, với nền kinh tế nhiều thành phần, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục giữ vững vai trò quan trọng, là một trong ba trụ cột của nền kinh tế. So với kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước vẫn là lực lượng vật chất có tiềm lực mạnh về tài chính, nắm giữ tài nguyên, đất đai, thương hiệu, lực lượng lao động, có đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, quản lý hùng hậu.
Ngày nay, trên cơ sở lý luận và thực tiễn được đúc kết, để phù hợp với tình hình thực tế của đất nước, Đảng và Nhà nước từng bước định hướng doanh nghiệp nhà nước chuyển dịch theo hướng chỉ tập trung vào những ngành, nghề then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Những doanh nghiệp nhà nước được tiếp tục phát triển là những doanh nghiệp có quy mô lớn, tính chất chuyên môn cao, hoạt động trong những lĩnh vực mà xã hội có nhu cầu lớn để thực sự là lực lượng nòng cốt thực hiện những cân đối lớn trong nền kinh tế, thực hiện được các mục tiêu chính trị - xã hội, đã khẳng định được vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế.
Trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định vai trò quan trọng của doanh nghiệp nhà nước đối với sự phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, được thể hiện qua các kỳ Đại hội của Đảng gắn với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức, sự phát triển của nền kinh tế, quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, có thể khái lược về chủ trương, định hướng của Đảng ta như sau:
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), đặc biệt Nghị quyết Trung ương 3 khóa VI đã chỉ rõ, xí nghiệp quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991), xí nghiệp quốc doanh đồng nhất với kinh tế quốc doanh. Đến Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996), thuật ngữ “kinh tế nhà nước” chính thức được sử dụng thay thế cho “kinh tế quốc doanh” và được hiểu rộng hơn, không chỉ đơn thuần là doanh nghiệp nhà nước mà còn là những nguồn lực vật chất khác do Nhà nước nắm giữ. Theo đó, vai trò của doanh nghiệp nhà nước đã có sự điều chỉnh.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) xác định, doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng; xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Cụ thể hóa tinh thần Đại hội IX, Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX xác định, doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) có sự điều chỉnh nhất định về vị trí của doanh nghiệp nhà nước, đó là xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích.
Đại hội XI của Đảng (tháng 1/2011) xác định các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Về vai trò và định hướng phát triển các loại hình doanh nghiệp, Đại hội XI nhấn mạnh: “Cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước để doanh nghiệp nhà nước thực sự trở thành nòng cốt của kinh tế nhà nước”, các loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Đến Đại hội XII của Đảng (tháng 1/2016), Đảng tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, bên cạnh việc khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, văn kiện xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Đây là một bước phát triển quan trọng góp phần khơi gợi tiềm năng to lớn trong nhân dân để phát triển đất nước. Về vai trò và định hướng phát triển các loại hình doanh nghiệp, Đại hội XII có cách nhìn tổng quan hơn, bước đầu xem xét các doanh nghiệp Việt Nam như một tổng thể hữu cơ, gắn bó với nhau: “Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” và đã ra nhiệm vụ: “Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,“hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp”.
Đại hội thi đua yêu nước Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp lần thứ nhất, tháng 10/2020. (Ảnh: Đảng Cộng sản Việt Nam) |
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục thống nhất và nâng cao một bước nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó có nội dung quan trọng về doanh nghiệp nhà nước như sau:
“... kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
“Tiếp tục thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung giữ những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”.
“Đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đẩy nhanh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế, bảo đảm doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Đẩy mạnh cơ cấu lại, cổ phần hóa, thoái vốn; nâng cao hiệu quả hoạt động, sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới cách thức thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nhất là các biện pháp liên quan đến xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu và giá trị truyền thống của doanh nghiệp cổ phần hóa. Hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước. Tiền thu được từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tập trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, địa phương, bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt quốc gia. Hình thành đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước chuyên nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, thực hiện quyền tự chủ, nâng cao hiệu quả hoạt động, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã gắn với phát huy vai trò làm chủ, tăng cường lợi ích của các thành viên, nâng cao khả năng huy động nguồn lực”. Nội dung Văn kiện Đại hội XIII đề ra mục tiêu phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước, phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động; tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%; đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60 - 65%.
Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay
Các doanh nghiệp nhà nước đang thể hiện rõ vai trò trong việc góp phần bảo đảm một số cân đối lớn của nền kinh tế, là công cụ quan trọng để thực hiện ổn định kinh tế vĩ mô, đối phó với những biến động thị trường. Đây là nội dung báo cáo từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị của Thường trực Chính phủ làm việc với doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi toàn quốc vào ngày 14/9/2023. Nội dung cơ bản như sau:
Sáng 14/9/2023, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị của Thường trực Chính phủ làm việc với doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi toàn quốc về các giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển. Tại Hội nghị, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình bày báo cáo tổng hợp về tình hình sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước; các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động, thúc đẩy đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới.
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị của Thường trực Chính phủ làm việc với doanh nghiệp Nhà nước về các giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển, tháng 9/2023. (Ảnh: VGP/Nhật Bắc) |
Theo báo cáo, đến hết năm 2022, Việt Nam còn khoảng 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và khoảng 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Trong đó, tuy chỉ chiếm hơn 10% về số lượng, nhưng khối công ty mẹ Tập đoàn - Tổng công ty (quy mô lớn) lại nắm giữ 92% tổng tài sản, 93% tổng doanh thu và 92% lợi nhuận trước thuế của toàn bộ doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc.
Các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đang nắm giữ khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ doanh nghiệp trên thị trường, chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước đóng góp khoảng 28% thu ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 0,7 triệu lao động, chiếm khoảng 7,3% lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Khu vực doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chi phối, chủ đạo trong trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế.
Trong lĩnh vực năng lượng, các nhà máy điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) cung cấp khoảng 87% sản lượng điện cho xã hội. Trong lĩnh vực xăng dầu, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp do doanh nghiệp nhà nước sở hữu đóng góp khoảng hơn 84% thị phần bán lẻ. Trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, chế biến và khai thác dầu khí, các doanh nghiệp nhà nước cung cấp 100% thị phần khí khô và 70% thị phần LNG toàn quốc, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu xăng dầu, 70 - 75% nhu cầu phân đạm cho sản xuất nông nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước cũng đóng góp vai trò quyết định trong nhiều lĩnh vực hạ tầng quan trọng của nền kinh tế, như: Viễn thông, công nghệ thông tin (chiếm hơn 90% thị phần về thuê bao di động và băng rộng di động mặt đất), hạ tầng giao thông vận tải, cảng biển, tài chính ngân hàng; cung cấp nguyên vật liệu sản xuất đầu vào quan trọng cho nền kinh tế (xi măng, hóa chất cơ bản, các nguyên, vật liệu dầu, khí, than, xơ sợi, cao su, dăm gỗ; sản xuất phân bón, đạm...); cung cấp dịch vụ công ích...
Tính đến hết năm 2022, tổng tài sản của doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc đạt 3.821.459 tỷ đồng, tăng 4% so với năm 2021. Năm 2023, tính đến 30/6, tổng doanh thu của doanh nghiệp nhà nước là 689.534 tỷ đồng, đạt 50% kế hoạch năm 2023. Lãi phát sinh trước thuế thu nhập doanh nghiệp là 67.403 tỷ đồng, đạt 63% so với kế hoạch năm 2023. Ước cả năm 2023 tổng doanh thu của toàn khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt 1.416.880 tỷ đồng, tăng 4% so với kế hoạch đề ra; tổng lãi phát sinh trước thuế 117.388 tỷ đồng, tăng 9% so với kế hoạch đề ra. Tổng thuế và các khoản phát sinh nộp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp nhà nước cả năm 2023 ước đạt 128.821 tỷ đồng, tăng 7% so với kế hoạch.
Lũy kế đến tháng 8/2023, một số doanh nghiệp có tổng doanh thu lớn gồm: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (đạt 350.525 tỷ đồng, bằng 84,7% kế hoạch năm và 94,4% so với cùng kỳ năm 2022), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (đạt 250.000 tỷ đồng, bằng 109% so với cùng kỳ năm 2022), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (đạt 169.000 tỷ đồng, bằng 88,9% kế hoạch năm và 84% so với cùng kỳ năm trước liền kề), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (đạt 112.100 tỷ đồng, bằng 66% kế hoạch năm và 101% so với cùng kỳ năm 2022)…
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong bối cảnh tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn khó khăn chung do tác động của cuộc xung đột Nga - Ukraine và các bất ổn của kinh tế thế giới, các doanh nghiệp nhà nước cơ bản đã nỗ lực tổ chức sản xuất kinh doanh đạt kế hoạch đề ra, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô.
Đáng giá chung năm 2022 và 8 tháng năm 2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, về cơ bản, các doanh nghiệp nhà nước hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh; tổng doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, giá trị vốn đầu tư phát triển thực hiện và thu nhập bình quân của người lao động tăng lên, một số tập đoàn, tổng công ty đạt kim ngạch xuất nhập khẩu lớn; chưa phát sinh dự án đầu tư có nguy cơ rủi ro cao gây thua lỗ lớn, thất thoát vốn Nhà nước; thể hiện rõ vai trò trong việc góp phần bảo đảm một số cân đối lớn của nền kinh tế, xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; là công cụ quan trọng để thực hiện ổn định kinh tế vĩ mô, đối phó với những biến động thị trường, kiềm chế lạm phát, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, quan trọng của nền kinh tế đã giúp giảm bớt đầu tư từ ngân sách nhà nước trong thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước; góp phần thực hiện tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ, tỷ suất lợi nhuận/tài sản còn thấp, hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Các tập đoàn, tổng công ty chưa chú trọng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực có tính dẫn dắt, tạo động lực. Các tập đoàn, tổng công ty chưa có sự phối hợp, liên kết, tận dụng thế mạnh của doanh nghiệp trong các lĩnh vực để thực hiện các dự án lớn, trọng điểm, đặc biệt là vấn đề thu xếp vốn cho dự án…
Về bài học kinh nghiệm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, ổn định môi trường pháp lý cho việc đầu tư vốn nhà nước vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt động quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp, đẩy mạnh cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đảm bảo tôn trọng và nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp cùng việc tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, nâng cao tính minh bạch về hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Cùng với đó, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế. Tập trung củng cố, phát triển một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực để giữ vững vị trí then chốt của nền kinh tế (năng lượng (trong đó ưu tiên năng lượng tái tạo, năng lượng sạch), kết cấu hạ tầng quốc gia, tài chính, công nghiệp viễn thông, công nghiệp bán dẫn, công nghệ lõi...) và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho rằng, cần thay đổi, nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua mục tiêu 100% tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước ứng dụng quản trị trên nền tảng số, thực hiện quản trị doanh nghiệp tiệm cận với các nguyên tắc quản trị của OECD; phấn đấu 100% tập đoàn kinh tế, tổng công ty có dự án triển khai mới, trong đó có một số dự án đầu tư tiêu biểu, có tính chất dẫn dắt, lan tỏa, mang thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước./.
CAO VĂN THẮNG
Đảng viên, Phó Trưởng Ban Pháp Chế Đảng bộ Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)