Năm 2021, hơn 1,4 triệu người thiếu việc làm
Tỷ lệ thất nghiệp năm 2021 cao hơn năm trước
Theo ông Phạm Hoài Nam. Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động báo cáo tổng quan về tình hình lao động, việc làm quý IV và năm 2021. Tiếp đến, Bà Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động báo cáo Chỉ số phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2016-2020.
Theo báo cáo lao động, việc làm, trong quý IV năm 2021, cả nước có hơn 24,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên quý IV năm 2021 là 50,7 triệu người, tăng 1,7 triệu người so với quý trước và giảm 1,4 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2021, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2021 là 50,5 triệu người, giảm 791,6 nghìn người so với năm trước.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quý IV năm 2021 là 67,7% thấp hơn 2,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước nhưng cao hơn 2,1 điểm phần trăm so với quý trước. Tính chung năm 2021, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2021 là 67,7%, giảm 1,9 điểm phần trăm so với năm trước.
Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý IV năm 2021 là 49,07 triệu người, thấp hơn 1,79 triệu người so với cùng kỳ năm trước, nhưng tăng 1,82 triệu người so với quý trước. Năm 2021, lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 49 triệu người, giảm 1 triệu người so với năm 2020. Trong đó, giảm chủ yếu ở khu vực nông thôn và ở nam giới. Số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn là 31,2 triệu người, giảm 1,5 triệu người và ở nam giới là 26,2 triệu người, giảm 729,5 nghìn người so với năm trước.
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức quý IV năm 2021 là 55,1%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Năm 2021, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 56,2%, tương đương so với năm trước. Tuy nhiên, ở khu vực nông thôn và ở nữ giới tỷ lệ này có xu hướng tăng tương ứng lần lượt là 1,0 điểm phần trăm và 0,2 điểm phần trăm so với năm trước.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý IV năm 2021 là 3,56%, giảm 0,42 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,93 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2021, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 3,22%, tăng 0,54 điểm phần trăm so với năm trước. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị là 4,42%, cao hơn 1,94 điểm phần trăm so với khu vực nông thôn.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý IV năm 2021 là 3,37%, giảm 1,09 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,55 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Năm 2021, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 3,10%, tăng 0,71 điểm phần trăm so với năm trước.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động trong quý IV năm 2021 là 5,3 triệu đồng, tăng 139 nghìn đồng so với quý trước và giảm 624 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Năm 2021, thu nhập bình quân tháng của người lao động là 5,7 triệu đồng, giảm 32 nghìn đồng so với năm 2020.
Thứ hạng HDI của Việt Nam tăng
Tại cuộc họp báo, bà Nguyễn Thị Thanh Mai, Vụ Phó Vụ thống kê dân số và lao động đã công bố báo cáo chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam giai đoạn 2016-2020. Báo cáo đi sâu phân tích các chỉ tiêu HDI đã tính toán, tổng hợp được; góp phần phản ánh động thái và thực trạng kinh tế- xã hội của đất nước trong những năm vừa qua trên 3 tiêu chí quan hệ trực tiếp đến mỗi người dân đó là: Sức khoẻ, giáo dục và thu nhập.
Trong giai đoạn 2016-2020, HDI (Chỉ số phát triển con người) của cả nước và hầu hết 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều tăng qua các năm. HDI của cả nước tăng từ 0,682 năm 2016 lên 0,687 năm 2017; 0,693 năm 2018; 0,703 năm 2019 và 0,706 năm 2020. Theo đó, Việt Nam từ Nhóm các quốc gia, vùng lãnh thổ có HDI trung bình năm 2018 và những năm trước đó đã gia nhập Nhóm đạt mức cao trong năm 2019- 2020. Thứ hạng HDI của Việt Nam trong các quốc gia, vùng lãnh thổ thế giới tăng từ vị trí 118 năm 2018 lên 117 năm 2019 và có thể tiếp tục được cải thiện trong năm 2020 khi Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cập nhật Bảng xếp hạng.
Với mức độ đóng góp khác nhau, tăng trưởng HDI giai đoạn 2016-2020 của cả nước và 63 địa phương có sự đóng góp của cả 3 chỉ số thành phần do các chỉ số này đạt được mức tăng và tốc độ tăng.
HDI của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2020 đều cao hơn năm 2016. Trong 5 năm 2016-2020, các địa phương đều thuộc Nhóm 3 là nhóm có HDI ở mức trung bình và Nhóm 2 là nhóm có HDI đạt mức cao. Đáng chú ý, trong những năm qua nhiều địa phương có HDI thấp nhưng tốc độ tăng đạt cao hơn địa phương có HDI cao nên khoảng cách chênh lệch HDI giữa các địa phương thu hẹp dần.
NGUYỄN NGÂN