An toàn, vệ sinh lao động trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ mang lại sự tự động hóa và số hóa hoàn toàn hoạt động sản xuất tại nơi làm việc bằng cách áp dụng các máy móc và thiết bị được điều khiển tự động, dựa trên tri thức và được trang bị cảm biến để cải thiện các quy trình thông qua khả năng tự tối ưu hóa và ra quyết định tự động. Khi những thay đổi lớn được diễn ra trong quy mô toàn bộ các ngành sản xuất và dịch vụ, hoạt động quản lý phòng ngừa sức khỏe và an toàn tại nơi làm việc có nguy cơ bị đặt trong mối quan hệ xung đột với tiến bộ khoa học kỹ thuật. Yêu cầu tất yếu cho vấn đề này là nâng cao chất lượng công tác ATVSLĐ, đảm bảo tính khả năng thích ứng với bối cảnh mới của áp dụng công nghệ.
Cơ sở lý luận về an toàn, vệ sinh lao động tại doanh nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Khái niệm an toàn lao động
Khái niệm về an toàn, vệ sinh lao động là một khái niệm gắn liền với quá trình mà trong đó các điều kiện lao động bao gồm điều kiện tự nhiên, xã hội, kỹ thuật... được tổ chức cho hoạt động lao động có sự tham gia của người lao động. Điều kiện lao động có tác động rất lớn tới sức khỏe của người lao động với đa dạng các yếu tố như nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn, khí độc, bụi bẩn, vi khuẩn, tính chất công việc... An toàn, vệ sinh lao động thường được tiếp cận dưới tư cách là khoa học về dự đoán, nhận biết, đánh giá và kiểm soát các mối nguy hiểm phát sinh trong hoặc từ nơi làm việc có thể làm suy giảm sức khỏe và tinh thần của người lao động, có tính đến những tác động có thể xảy ra đối với cộng đồng xung quanh và môi trường. Lĩnh vực này có nội hàm rộng, bao gồm đa dạng các nguyên tắc, có phạm vi áp dụng tại nhiều địa điểm làm việc, nhằm mục đích phòng tránh các mối nguy hiểm về sức khỏe người lao động và môi trường.
Các vấn đề của ATVSLĐ tập trung vào ba lĩnh vực chính, bao gồm:
- An toàn lao động liên quan đến việc tìm hiểu nguyên nhân gây ra tai nạn tại nơi làm việc, cách ngăn chặn hành động và điều kiện không an toàn ở nơi làm việc. An toàn tại nơi làm việc liên quan đến các đề xuất các tiêu chuẩn trong quản lý, xử lý và bảo quản vật liệu phù hợp, an toàn máy móc, an toàn điện, phòng ngừa và kiểm soát hỏa hoạn, kiểm tra an toàn và điều tra tai nạn.
- Sức khỏe nghề nghiệp liên quan đến việc xác định các mối nguy hiểm và rủi ro khác nhau tại nơi làm việc có thể gây ra bệnh tật lên người lao động và đề xuất các chương trình sức khỏe cần thiết trong việc kiểm soát các bệnh liên quan đến công việc và/hoặc bệnh nghề nghiệp. Các vấn đề về sức khỏe nghề nghiệp thường ít được quan tâm hơn các vấn đề về an toàn lao động vì các vấn đề về sức khỏe nghề nghiệp thường khó giải quyết hơn. Tuy nhiên, khi vấn đề sức khỏe được quan tâm thì sự an toàn cũng vậy - một nơi làm việc lành mạnh theo định nghĩa cũng là một nơi làm việc an toàn.
- Vệ sinh lao động thảo luận về việc xác định, đánh giá và kiểm soát các mối nguy vật lý, hóa học, sinh học và công thái học.
Một cách chung nhất, có thể định nghĩa “ATVSLĐ là tổng thể các chính sách, biện pháp được áp dụng một cách có chủ ý nhằm kiểm soát các mối nguy hiểm phát sinh trong hoặc từ nơi làm việc có thể làm suy giảm sức khỏe thể chất và tinh thần của người lao động”.
Nội dung của an toàn lao động tại doanh nghiệp
Ở khía cạnh chính sách và quản lý vĩ mô, yêu cầu về ATVSLĐ được khái quát thông qua nội dung của các văn kiện chính của ILO về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, được nêu trong ba Công ước lao động quốc tế các Công ước kèm theo, và việc nội luật hóa của Chính phủ:
- Công ước về Cơ cấu Xúc tiến An toàn và Sức khỏe Lao động (Số 187) và Khuyến nghị kèm theo (Số 197), 2006, quy định việc thiết lập một quy trình lâu dài nhằm cải tiến liên tục an toàn và sức khỏe nghề nghiệp và xây dựng một cơ chế phòng ngừa văn hóa an toàn và sức khỏe. Điều này đòi hỏi các chính phủ, với sự tham vấn của các tổ chức đại diện nhất của người sử dụng lao động và người lao động, thực hiện các bước tích cực nhằm đạt được và duy trì môi trường làm việc an toàn và lành mạnh bằng cách xây dựng hoặc cập nhật chính sách quốc gia, phát triển hoặc nâng cấp hệ thống quốc gia và thực hiện các chương trình quốc gia về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Quá trình này phải tính đến các nguyên tắc được nêu trong các văn kiện của ILO liên quan đến Công ước và phải bao gồm cơ chế xem xét những biện pháp nào có thể được thực hiện để phê chuẩn các Công ước ILO liên quan đến ATVSLĐ.
- Công ước về An toàn và Sức khỏe Lao động của ILO, 1981 (Số 155) và Khuyến nghị kèm theo (Số 164), quy định việc áp dụng chính sách quốc gia về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, cũng như mô tả các hành động mà chính phủ và các tổ chức phải thực hiện trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy an toàn, sức khỏe nghề nghiệp và cải thiện môi trường làm việc. Công ước được bổ sung bởi Nghị định thư năm 2002 của Công ước về An toàn và Sức khỏe Lao động (Số 155), trong đó kêu gọi thiết lập và xem xét định kỳ các yêu cầu và thủ tục ghi chép và thông báo tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng như công bố các thông tin về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. thống kê hàng năm có liên quan.
- Công ước về dịch vụ sức khỏe nghề nghiệp của ILO (Số 161) và Khuyến nghị (Số 171), 1985, quy định việc thành lập các dịch vụ sức khỏe nghề nghiệp ở cấp doanh nghiệp, được thiết kế để đảm bảo thực hiện các hệ thống giám sát sức khỏe và góp phần thực hiện chính sách ATVSLĐ. Lý tưởng nhất là cơ quan y tế nghề nghiệp nên thiết lập và hoạt động theo một chương trình hoạt động phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp nơi nó hoạt động. Các chức năng của nó phải đầy đủ và phù hợp với các mối nguy hiểm nghề nghiệp và rủi ro sức khỏe của doanh nghiệp mà nó phục vụ, đặc biệt chú ý đến các vấn đề cụ thể của ngành hoạt động kinh tế liên quan.
Đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập 12 công ước liên quan đến ATVSLĐ, bao gồm hai trên ba Công ước chính của ILO đã nêu ở trên (không bao gồm Công ước số 161). Nội hàm của các văn bản pháp luật hiện hành cho phép xác định gồm có ba nhóm quy định: (i) Các nghĩa vụ của người sử dụng lao động; (ii) Cơ chế ba bên cho phép sự tham gia của đại diện tập thể người lao động; (iii) Xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật hoặc quy định riêng trong một số lĩnh vực có yêu cầu đặc biệt (như Danh mục các loại máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động; hướng dẫn Luật bảo hiểm xã hội và Luật an toàn vệ sinh lao động thuộc lĩnh vực y tế; Danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm...).
Các yếu tố ảnh hưởng tới an toàn, vệ sinh lao động trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Bên cạnh các tác nhân truyền thống được đem lại từ đặc thù riêng của từng ngành sản xuất, kinh doanhh và chính sách của nhà quản trị và đặc điểm của nguồn nhân lực, sự tiến bộ của khoa học công nghệ đem lại nhiều hơn cho con người những tiện ích trong sản xuất và tổ chức quản lý lao động. Trong lĩnh vực ATVSLĐ, ứng dụng khoa học công nghệ có tác động nổi bật như:
- Ứng dụng khoa học công nghệ cho phép nghiên cứu, phân tích ATVSLĐ trở nên thực tế hơn, khắc phục những hạn chế của phương pháp truyền thống. Với sự trợ giúp của thống kê dữ liệu và phân tích các sự kiện dẫn đến hoặc không dẫn đến sự cố trong lao động. Khi mẫu được phân tích đủ lớn, nó sẽ cung cấp cho chúng ta kết quả đủ tin cậy.
- Môi trường làm việc trở nên đa dạng hơn nhờ ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, đòi hỏi áp dụng các tiêu chuẩn mới về ATVSLĐ. Với công nghệ mới hiện có để giám sát, đo lường và kiểm soát các mối nguy hiểm tại nơi làm việc cũng như sự phát triển nhanh chóng của các công nghệ. Xu hướng ứng dụng công nghệ IoT (Internet vạn vật) để đánh giá rủi ro và hạn chế tiếp xúc với điều kiện có khả năng gây hại đang có tác động cải thiện mạnh mẽ công tác ATVSLĐ.
- Những xu hướng mới cũng tồn tại nguy cơ tác động xấu đối với ATVSLĐ. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy môi trường làm việc mới có thể có tác động tiêu cực đến sự an toàn trong lao động. Một cách rõ ràng, với môi trường làm việc mới, cách phòng ngừa tai nạn tại nơi làm việc cũng sẽ thay đổi. Đơn cử như khái niệm cường độ làm việc được dự đoán là một yếu tố về điều kiện làm việc sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực. Các vấn đề có thể bao gồm đau khớp, cứng khớp và thoái hóa cơ - có thể do công thái học kém gây ra và ngày càng trở nên phổ biến hơn khi công việc từ xa ngày càng gia tăng. Có những nghiên cứu chỉ ra rằng tồn tại nhiều mối liên hệ giữa an toàn và quản lý môi trường và chúng có thể căng thẳng hoặc mang tính hợp tác, tùy thuộc vào vấn đề. Ví dụ, hệ thống ống xả mới, xanh hơn cho máy móc công nghiệp có thể giảm lượng khí thải carbon nhưng cũng có thể phụ thuộc vào các hóa chất nguy hiểm hoặc tạo ra tiếng ồn đáng kể, có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người lao động.
- Người lao động phải đối mặt với những tác động phi truyền thống đe dọa gây tổn hại tới sức khỏe của họ. Công nghệ tiếp tục thay đổi gần như mọi khía cạnh trong cuộc sống đặc biệt là ở nơi làm việc. Các công ty hiện nay dựa vào một loạt các ứng dụng phần mềm để quản lý hoạt động hàng ngày của họ, nó có thể làm giảm sự tiếp xúc giữa nhân viên và người giám sát, cũng như giữa nhân viên và đồng nghiệp, do đó làm xấu đi bầu không khí nơi làm việc bằng cách tăng cường căng thẳng liên quan đến công việc cũng như tạo ra tác động tiêu cực lâu dài đến sức khỏe. Tính di động, tính linh hoạt và khả năng tiếp cận cao hơn của máy móc cũng có thể khiến máy móc có thể làm việc ở mọi nơi, mọi lúc, do đó có khả năng làm suy giảm sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống của cá nhân. Căng thẳng liên quan đến việc thay đổi nơi làm việc; Sự dịch chuyển công nhân của con người và tình trạng thất nghiệp có thể xảy ra do việc thay thế công nhân của con người bằng robot có thể trở nên rõ ràng. Do đó, đảm sức khỏe tinh thần đang trở thành một vấn đề sức khỏe phổ biến nhất tại nơi làm việc. Những tác động đáng lo ngại nhất là sự gia tăng đáng kể các vấn đề về sức khỏe tâm thần, dẫn đến các vấn đề lạm dụng chất gây nghiện, khó ngủ, căng thẳng và hiệu suất làm việc kém. Nhận thức này đã dẫn đến một số thay đổi lớn, thúc đẩy người sử dụng lao động cần cung cấp nguồn lực và hướng dẫn tốt hơn cho những nhân viên có thể đang phải vật lộn với căng thẳng, lo lắng hoặc lạm dụng chất gây nghiện.
Xu hướng an toàn vệ sinh lao động ở một số quốc gia trên thế giới
Châu Âu
Vào năm 2020, Cơ quan An toàn và sức khỏe việc làm Châu Âu (EU-OSHA) đã khởi xướng chương trình nghiên cứu kéo dài 4 năm về số hóa và an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Thảo luận về các rủi ro và cơ hội ATVSLĐ của hệ thống quản lý người lao động dựa trên trí tuệ nhân tạo (được gọi tắt là AIWM ), EU-OSHA xác định đó là nội dung quan trọng để tăng cường ATVSLĐ tại nơi làm việc. Bên cạnh các lợi ích có thể đem lại từ AIWM, An toàn và sức khỏe việc làm Châu Âu chỉ rõ các rủi ro tiềm ẩn đối với ATVSLĐ, nhấn mạnh vào các rủi ro về tâm lý xã hội: Hệ thống AIWM có thể tăng cường độ làm việc và tốc độ làm việc, vì khi chúng được sử dụng để chỉ đạo công nhân, chúng có thể buộc công nhân không được nghỉ giải lao hoặc làm việc ở tốc độ cao. Hệ thống AIWM cũng có thể làm giảm đáng kể quyền tự chủ và kiểm soát của người lao động đối với công việc của họ, dẫn đến mức độ căng thẳng cao và đôi khi làm giảm năng suất, hiệu suất kém và tăng mức độ nghỉ ốm. Hơn nữa, những hệ thống AIWM giám sát và đánh giá hiệu suất của nhân viên có thể tạo ra áp lực về hiệu suất, làm tăng nguy cơ mắc MSD hoặc làm tăng tình trạng kiệt sức, tai nạn, căng thẳng, lo lắng và sợ mất việc của người lao động. Một số hệ thống AIWM, chẳng hạn như những hệ thống thực hiện kiểm soát chặt chẽ công nhân, được cho là làm mất nhân tính của công nhân: những hệ thống như vậy có thể 'dữ liệu hóa' công nhân, những người trở thành đối tượng thu thập dữ liệu và buộc họ làm việc như máy móc, dẫn đến giảm nhận thức và năng lực trí tuệ và tư duy sáng tạo, mất tính tự chủ, thiếu tư duy độc lập và phản biện. Điều này có thể dẫn đến căng thẳng liên quan đến công việc, mệt mỏi, kiệt sức, kiệt sức, lo lắng hoặc sợ mất việc, căng thẳng do công nghệ, lo lắng về công nghệ và mệt mỏi do công nghệ. Cuối cùng, các hệ thống AIWM xâm nhập dựa trên việc giám sát chuyên sâu người lao động có thể dẫn đến việc thu thập dữ liệu riêng tư và nhạy cảm, đồng thời làm mờ ranh giới giữa công việc và cuộc sống riêng tư. Những hệ thống như vậy cũng có thể dẫn đến phân biệt đối xử đối với một số người lao động, nếu hệ thống dựa trên dữ liệu sai lệch dành ưu tiên cho những người lao động ở một độ tuổi, dân tộc hoặc giới tính cụ thể.
EU-OSHA đề xuất rằng cần có cách tiếp cận “phòng ngừa thông qua thiết kế” mạnh mẽ tích hợp cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm trong thiết kế và sử dụng AIWM. AIWM phải được thiết kế, triển khai và quản lý theo cách đáng tin cậy, minh bạch, trao quyền và dễ hiểu, đảm bảo sự tham vấn, sự tham gia và tiếp cận thông tin bình đẳng của người lao động, cũng như đặt con người vào tầm kiểm soát và do đó đảm bảo rằng AIWM được sử dụng không thay thế người lao động nhưng để hỗ trợ họ, bao gồm các khuyến nghị triển khai:
- Đối thoại hiệu quả giữa người lao động/người sử dụng lao động và sự tham gia của người lao động: Đảm bảo sự tham gia của người lao động vào tất cả các giai đoạn thiết kế, phát triển, triển khai và đánh giá hệ thống AIWM tại nơi làm việc. Điều đó ngụ ý rằng người lao động phải có mặt khi quyết định bảo vệ quyền riêng tư và bảo vệ dữ liệu của người lao động, giải quyết vấn đề giám sát, theo dõi và giám sát, làm cho mục đích của thuật toán AI trở nên minh bạch, đảm bảo thực hiện quyền giải thích của họ về các quyết định do thuật toán hoặc máy đưa ra các mô hình học tập và đảm bảo an toàn và sức khỏe của người lao động được đặt lên hàng đầu trong cuộc thảo luận. Điều này sẽ cho phép cải thiện tính minh bạch, công bằng, quyền riêng tư dữ liệu, độ tin cậy, trách nhiệm giải trình và ATVSLĐ trong tổ chức khi sử dụng AIWM.
- Xem xét ý nghĩa của AIWM đối với ATVSLĐ ở giai đoạn đầu: Những cân nhắc về cách AIWM có thể ảnh hưởng đến ATVSLĐ cần được tính đến ở giai đoạn nghiên cứu và thiết kế các hệ thống như vậy. Do đó, để đảm bảo rằng các hệ thống AIWM không gây ra các tác động tiêu cực về ATVSLĐ, các hệ thống đó chủ yếu phải hỗ trợ và bảo vệ con người, đảm bảo sự an toàn, tính bền vững và độ tin cậy của con người (tức là đảm bảo rằng các hệ thống đó không mắc sai lầm có thể gây hại cho người lao động).
- Đánh giá rủi ro AIWM ở tất cả các giai đoạn: Do các hệ thống AIWM có thể phát triển và tự học hỏi nên một cách tiếp cận có hệ thống để phân tích AIWM và tác động của nó đối với ATVSLĐ là rất quan trọng. Nghĩa là, việc đánh giá các hệ thống như vậy phải được thực hiện định kỳ với sự tham gia của người lao động để đảm bảo rằng các hệ thống an toàn trước đây không trở nên nguy hiểm theo thời gian.
- Đào tạo để người lao động hiểu và sử dụng hệ thống AIWM một cách an toàn: Những nỗ lực giáo dục này cũng sẽ cung cấp cho người lao động bí quyết về cách thách thức các quyết định/đề xuất được đưa ra/đề xuất bởi hệ thống AI hoặc AIWM.
- Phát triển khuôn khổ đạo đức cấp độ liên minh Châu Âu: Việc đảm bảo rằng AIWM không dẫn đến các tác động tiêu cực về ATVSLĐ có thể được thúc đẩy thông qua việc phát triển khuôn khổ đạo đức cấp EU cho quá trình số hóa, quy định cách thức sử dụng AIWM và các hệ thống dựa trên AI nói chung ở nơi làm việc.
Không chỉ giới hạn trong phạm vi những thảo luận mới ở mộ chủ đề hẹp về ứng dụng trí tuệ nhân tạo, ATVSLĐ đã là trọng tâm trong chính sách của cộng đồng chung châu Âu từ rất sớm. Để hỗ trợ việc triển khai thực tế các biện pháp phòng ngừa an toàn và sức khỏe, nhiều chủ thể (ví dụ: các tổ chức của các chuyên gia và người hành nghề ATVSLĐ và các viện tiêu chuẩn hóa như Ủy ban Tiêu chuẩn Châu Âu và Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế) đã ban hành các hướng dẫn hoặc tiêu chuẩn về an toàn và sức khỏe, hoặc đã phát triển hệ thống quản lý ATVSLĐ mới và tiên tiến, khoa học kỹ thuật nghiên cứu các công nghệ phòng ngừa kỹ thuật tốt hơn, về công nghệ đo lường và giám sát, khoa học y tế đưa ra chẩn đoán y tế tốt hơn và điều trị các bệnh liên quan đến công việc, khoa học xã hội đóng góp kiến thức tốt hơn về các yếu tố pháp lý và kinh tế quyết định ATVSLĐ hoặc phân tích các đặc điểm của việc nâng cao nhận thức, phát triển kiến thức và tổ chức công việc lành mạnh, nổi bật là:
- Thiết kế an toàn hơn về mặt kỹ thuật cho phương tiện di chuyển (ví dụ: đối với xe nâng hoặc xe tải hạng nặng và máy móc, tín hiệu cảnh báo ánh sáng và tiếng ồn cho phương tiện di chuyển);
- Thiết kế máy móc an toàn hơn như tự động tắt hoặc ngắt kết nối, vận hành máy bằng hai tay (ví dụ để ép và đục lỗ), cần cẩu an toàn hơn bao gồm các công nghệ tốt hơn để liên lạc giữa các đồng nghiệp, che phủ các bộ phận chuyển động, ô tô an toàn hơn (ví dụ: dây đai an toàn và túi khí), an toàn hơn dụng cụ (ví dụ để khoan hoặc cắt);
- Cải tiến các thiết bị bảo hộ cá nhân như thiết bị thở được cung cấp không khí, găng tay lưới thép cho công nhân chế biến thịt, quần dài cho công nhân lâm nghiệp có khả năng chống cưa máy;
- Yêu cầu an toàn tối thiểu đối với các tòa nhà (ví dụ: hình thức và kích thước của cầu thang và tay vịn, lối thoát hiểm và báo cháy, thang và giàn giáo an toàn hơn), thiết bị khẩn cấp như rửa mắt và vòi sen khẩn cấp;
- Giám sát tốt hơn các mối nguy cấp tính (ví dụ như trong hệ thống nước thải), công nghệ xả và thông gió để tránh khói, bụi, hóa chất hoặc tiếp xúc với các tác nhân sinh học nguy hiểm; nghĩa vụ an toàn chặt chẽ khi làm việc trong không gian hạn chế hoặc làm việc trên cao và làm việc trong điều kiện hầm lò;
- Giới thiệu các khu vực nổ và các dụng cụ không phát ra tia lửa, hệ thống tín hiệu cảnh báo toàn diện, tín hiệu cảnh báo sàn trơn và mặt đất không an toàn, hệ thống và thiết bị cảnh báo tốt hơn trong các môi trường làm việc đặc biệt nguy hiểm như bảo trì đường bộ, kết hợp với các biện pháp tổ chức tốt hơn;
- Hệ thống chất lượng thúc đẩy việc sửa chữa và bảo trì liên tục các công cụ; hướng dẫn thường xuyên của đại diện an toàn và điều phối viên an toàn, đồng thời đảm bảo tiêu chuẩn an toàn tối thiểu của máy móc và sản phẩm theo tiêu chuẩn Châu Âu như CE.
Hoa Kỳ
Vào năm 2019, Viện An toàn và Sức khỏe lao động Quốc gia (NIOSH), một phần của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), đã đưa ra một sáng kiến về tương lai việc làm. Mục đích của nó là chuẩn bị sẵn sàng ATVSLĐ và các lĩnh vực liên quan để giải quyết công việc trong tương lai cũng như các mức độ phơi nhiễm, mối nguy hiểm và tình huống phát sinh đã biết và chưa biết. Chương trình nghiên cứu này cung cấp một nền tảng có tổ chức để từ đó xem xét tương lai của công việc và đưa ra các hành động cụ thể để thực hiện nhằm giúp chuẩn bị và ứng phó. Để đạt được mục tiêu này, Sáng kiến ủng hộ cách tiếp cận “Sức khỏe toàn diện cho người lao động” (Total Worker Health - TWH). Dựa trên các chương trình bảo vệ ATVSLĐ truyền thống chủ yếu tập trung vào việc đảm bảo công việc được an toàn và người lao động được bảo vệ khỏi những tác hại phát sinh từ chính công việc, cách tiếp cận TWH là một chiến lược mở rộng, toàn diện, xuyên ngành, coi công việc là yếu tố xã hội quyết định sức khỏe và tập trung vào về cách nơi làm việc và công việc đóng góp vào kết quả của người lao động, nhằm cải thiện phúc lợi. Điều này cũng bao gồm việc giải quyết tầm quan trọng của mối quan hệ giữa các vấn đề an toàn, sức khỏe và phúc lợi vượt ra ngoài công việc và do đó không chỉ ảnh hưởng đến người lao động mà còn cả gia đình, cộng đồng và xã hội của họ. Sử dụng khuôn khổ TWH, một nỗ lực hợp tác của các hoạt động liên kết và nghiên cứu đa ngành giữa NIOSH và với các cơ quan, tổ chức chính phủ, hiệp hội thương mại, công đoàn hoặc đại diện nhân viên khác và các đối tác quan trọng khác. Mục đích của nó là xác định các giải pháp mới, cách tiếp cận thực tế cũng như các cơ hội và cam kết hợp tác quốc gia và quốc tế. NIOSH xác lập các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cho chương trình hành động “Sức khỏe toàn diện cho người lao động”, bao gồm các mục tiêu[3] nhằm giải quyết những thách thức được đem lại từ việc ứng dụng khoa học công nghệ tại nơi làm việc:
- Xác định và giải quyết các vấn đề của người lao động liên quan đến tự động hóa, chuyển dịch công việc do công nghệ và phân cực nghề nghiệp: Tập trung nghiên cứu tăng cường các hoạt động nghiên cứu về tác động của tự động hóa, dịch chuyển công việc do công nghệ và phân cực nghề nghiệp đối với sự an toàn, sức khỏe và phúc lợi của người lao động trong các ngành nghề và ngành công nghiệp; các biện pháp can thiệp khắc phục và xây dựng khả năng phục hồi để có thể chuẩn bị hoặc bảo vệ người lao động tốt hơn khỏi nguy cơ mất việc hoặc mất việc làm do tự động hóa;
- Giảm thiểu rủi ro cho người lao động và tối đa hóa lợi ích gắn liền với ứng dụng trí tuệ nhân tạo: Tập trung vào nghiên cứu phát triển, sử dụng và chấp nhận AI để đánh giá và kiểm soát rủi ro ATVSLĐ; Kiểm tra và đánh giá các hệ thống và thuật toán AI để giảm sự phân biệt đối xử và thiên vị đối với người lao động, giải quyết các mối lo ngại về công bằng sức khỏe và đạo đức, đồng thời cải thiện tính đại diện về nhân khẩu học - xã hội.
- Giảm thiểu các thách thức về an toàn và sức khỏe của người lao động cũng như tận dụng các cơ hội liên quan đến robot: Đánh giá lợi ích và rủi ro của robot, bao gồm tương tác giữa người và máy, nhận dạng hành động của con người và dự đoán ý định của robot trong các công việc, nghề nghiệp và ngành bị ảnh hưởng nặng nề (như vận chuyển, sản xuất, đúc, khai thác mỏ và hàn); Kiểm tra giao diện máy móc để xác định cái gì và số lượng cần thiết, những thách thức khi chưa được tối ưu hóa và tác động tâm lý xã hội đối với những người làm việc với các công nghệ robot mới (bao gồm cả căng thẳng khi sử dụng các công nghệ chưa được hiểu đầy đủ và những lo ngại về khả năng phụ thuộc vào công nghệ).
- Đánh giá tác động của các công nghệ đổi mới và mới nổi đối với phúc lợi của người lao động.
Kế hoạch hành động của cơ quan quản lý tại Hoa Kỳ cho thấy cách tiếp cận thận trọng, những đề xuất về việc triển khai những nghiên cứu sâu sắc hơn về các vấn đề phát sinh mới ở những giai đoạn đầu tiên. Tuy nhiên, nó là tiền đề tốt cho các chính sách khi các đề xuất đã quan tâm tới những vấn đề rất toàn diện tới mọi mặt đời sống và phúc lợi của người lao động.
Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Khuyến nghị giải pháp trong quản trị
Ở khía cạnh quản lý vĩ mô, những yêu cầu trong việc đặt ra một khuôn khổ quy định áp dụng chung bằng công cụ pháp luật đóng một vai trò quan trọng trong việc bắt buộc các ngành phải đáp ứng các tiêu chuẩn về sức khỏe và an toàn. Bất chấp sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ được sử dụng trong sản xuất thông minh, luật pháp hiện hành về ATVSLĐ sẽ tiếp tục hoạt động hiệu quả trong vài năm tới. Tuy nhiên, trong tương lai, việc hoàn thiện quy định pháp luật nhằm đáp ứng các yêu cầu mới về ATVSLĐ vẫn là một đòi hỏi chính đáng, trong đó tập trung giải quyết các vấn đề:
- Thiết lập tiêu chuẩn cho hệ thống công nghiệp kết hợp quy trình điều khiển từ xa (điện toán đám mây, Internet vạn vật, v.v.) hoặc cảm biến làm tăng khả năng tự chủ của máy trên khía cạnh đảm bảo ATVSLĐ dựa trên các nghiên cứu tổng thể về tác động tới người lao động.
- Cân nhắc việc tham gia ý kiến và ký kết các điều ước quốc tế mới trong lĩnh vực này, đảm bảo tính cạnh tranh và không tụt hậu của ngành ATVSLĐ trong nước cũng như các ngành công nghiệp là đối tượng áp dụng các chính sách này.
- Đảm bảo tính đồng bộ với các quy định bảo vệ dữ liệu và dữ liệu cá nhân, an toàn thông tin, và các vấn đề pháp lý liên quan tới chống phân biệt đối xử.
- Thiết lập các chính sách hỗ trợ và phương thức thực hiện hiệu quả hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các trường hợp chi phí trang bị thêm những máy móc để đạt được sự tuân thủ các tiêu chuẩn cập nhật có thể trở nên rất đắt đỏ.
Ở cấp độ doanh nghiệp, những rủi ro mới về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp được đem lại từ tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi một cách tiếp cận chủ động để đánh giá rủi ro ở giai đoạn thiết kế hoặc giai đoạn đầu của các ứng dụng đổi mới và áp dụng các chiến lược quản lý phù hợp để bảo vệ người lao động. Cần nhấn mạnh rằng việc tăng năng suất và hiệu quả của hệ thống công nghiệp (mục tiêu của Công nghiệp 4.0) không có bất kỳ xung đột cơ bản nào với việc triển khai hoặc duy trì hệ thống quản lý ATVSLĐ. Các yêu cầu về mặt quản trị trong doanh nghiệp cần tập trung vào các khía cạnh sau:
- Đánh giá rủi ro trên cơ sở xác định rủi ro vận hành liên quan đến tất cả các giai đoạn của quy trình sản xuất, từ quản lý dữ liệu đến thông tin bảo trì, phương pháp vận hành và công cụ được sử dụng, vật liệu, lỗi của con người, máy móc và công nghệ sản xuất. Đây là một nhiệm vụ khá khó khăn trong một hệ thống nhà máy linh hoạt, nơi các quy trình quản lý và đánh giá rủi ro an toàn và sức khỏe nghề nghiệp sẽ thay đổi và liên tục được đánh giá, cải tiến và xác minh khi thông tin rủi ro trở nên quan trọng hơn. Do đó, trong giai đoạn đầu tìm hiểu về chủ đề này, cần áp dụng phương pháp quản lý rủi ro phòng ngừa để đạt được sự phát triển bền vững của các đổi mới công nghiệp 4.0.
- Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật theo cách tiếp cận đánh giá sớm về rủi rỏ, ngay từ khâu thiết kế. Hành động phối hợp của người sử dụng lao động, nhân viên, các bên liên quan và tất cả các chuyên gia sức khỏe nghề nghiệp có liên quan cần tập trung vào việc xác định các đặc điểm của các ứng dụng có lợi của Công nghiệp 4.0, cũng như tác động có thể có của chúng đối với thực tiễn làm việc, việc làm và an toàn lao động và sức khỏe. Điều này có thể cho phép lực lượng lao động tham gia tích cực vào quá trình đánh giá rủi ro và áp dụng hiệu quả các biện pháp phòng ngừa và bảo vệ thực tế. Đồng thời, cần có sự đối thoại chặt chẽ và hiệu quả giữa người lao động và người sử dụng lao động cũng như sự hợp tác giữa các nhà nghiên cứu, nhà phát triển, ngành công nghiệp, đối tác xã hội và chính phủ về nghiên cứu và đổi mới trong thiết kế hệ thống công nghệ ứng dụng hiện đại.
- Đảm bảo thực hiện các chiến lược đào tạo phù hợp. Cần điều tra sâu hơn để đánh giá hiệu quả so sánh giữa học tại nhà và học từ xa, giáo dục phổ thông và dạy nghề; cung cấp đào tạo cụ thể về các vấn đề an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, đặc biệt là trước khi bắt đầu công việc, sau khi thay đổi nơi làm việc, nhiệm vụ công việc, thiết bị làm việc hoặc thiết bị và khi công nghệ mới được áp dụng. Hơn nữa, vì công nghệ tự động hóa có thể tạo ra các hình thức làm việc và việc làm “theo yêu cầu” hoàn toàn mới nên việc thúc đẩy phòng ngừa để bảo vệ sự an toàn và sức khỏe của loại người lao động mới này sẽ trở thành một vấn đề đầy thách thức.
- Thực hiện cách tiếp cận chủ động trong việc thiết lập hồ sơ rủi ro của nơi làm việc trong ngành công nghiệp 4.0 và phát triển các tiêu chuẩn quốc tế được thiết kế để bảo vệ người lao động khỏi mọi rủi ro tiềm ẩn. Các tiêu chuẩn an toàn tại nơi làm việc cần được xác định liên quan đến việc bảo trì, vận hành máy móc và tương tác giữa con người và robot.
- Xem xét cách các mô hình quản lý kinh doanh và công nghệ hiện đại tương tác với nhau. Cần nghiên cứu thêm để hiểu liệu các mô hình quản lý kinh doanh hiện tại có đủ khả năng ngăn ngừa và quản lý các rủi ro ATVSLĐ có thể mang lại hay không.
- Cần tiến hành nghiên cứu về hệ thống công nghệ hiện đại và ATVSLĐ một cách liên tục. Phân tích tính an toàn của các hệ thống máy móc thông minh cần được tiến hành định kỳ. Các hệ thống dựa trên trí tuệ nhân tạo có thể học hỏi từ môi trường và phát triển, sẽ không chính xác khi cho rằng chúng luôn ổn định và không thay đổi. Điều này có nghĩa là những nỗ lực nghiên cứu về cách hệ thống máy móc hiện đại ngày này ảnh hưởng đến ATVSLĐ không nên chỉ được thực hiện một lần ở giai đoạn phát triển hoặc tích hợp hệ thống. Việc đánh giá và phân tích phải được thực hiện định kỳ để đảm bảo rằng các hệ thống trước đây được coi là an toàn vẫn vô hại đối với người lao động.
- Cần tiến hành nghiên cứu về những hậu quả đối với tổ chức công việc và những rủi ro tâm lý xã hội đi kèm.
- Liên quan đến tác động đạo đức của ngành công nghiệp 4.0, cần áp dụng cách tiếp cận kỹ thuật xã hội để đổi mới công nghệ, mô hình tổ chức công việc và phát triển chuyên môn liên tục được kết nối chặt chẽ với hoàn cảnh kinh tế và xã hội và do đó có thể cung cấp giải pháp nhất quán cho phép tương tác thông minh giữa nhân viên và/hoặc hệ điều hành công nghệ trên toàn bộ chuỗi giá trị. Một tổ chức sản xuất linh hoạt hơn phải cho phép nhân viên đạt được sự cân bằng thực tế giữa công việc và cuộc sống, trong đó thiết kế tổ chức theo định hướng lao động, quyền của người lao động và cơ hội đào tạo được xem xét thích đáng.
Khuyến nghị giải pháp kỹ thuật
Phù hợp với các yêu cầu mới trong quan điểm quản lý nhà nước và quản trị trong doanh nghiệp, các khuyến nghị về giải pháp kỹ thuật tập trung vào những nội dung dưới đây:
- Hệ thống công nghệ thông minh cần phải dựa trên cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm. Hệ thống móc móc phải được thiết kế, triển khai và quản lý an toàn và minh bạch, đảm bảo sự tham vấn, sự tham gia của người lao động, quyền tiếp cận thông tin bình đẳng ở tất cả các giai đoạn và đảm bảo rằng con người đang chỉ huy bất cứ lúc nào.
- Đánh giá rủi ro phải được điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống, phải đảm bảo bao gồm tất cả các yếu tố liên quan đến công việc và phải được thực hiện cùng với các chuyên gia lập trình thuật toán để giải quyết và xem xét các vấn đề liên quan. sự tồn tại của những điều không chắc chắn và rủi ro được xác định. Về vấn đề này, dường như cần phải phát triển các quy trình kỹ thuật được tiêu chuẩn hóa để đánh giá rủi ro của các hệ thống dựa trên AI dựa trên sự chứng thực đầy đủ về mặt khoa học.
- Đưa cách tiếp cận chỉ huy của con người vào nghiên cứu về ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, kinh doanh. Nghiên cứu nên tập trung vào việc xác định mức độ con người được chỉ huy và các hệ thống được sử dụng để hỗ trợ người lao động thay vì thay thế họ và việc triển khai chúng không dẫn đến ATVSLĐ rủi ro.
- Cần có nhiều nghiên cứu tập trung vào các rủi ro nghề nghiệp mới nổi ở mọi cấp độ sản xuất, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, thiết kế và bố trí nơi làm việc cũng như việc sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin.
- Các phương tiện bảo vệ chống truy cập trái phép vào dữ liệu được ghi lại và thông tin lưu chuyển trong hệ thống sản xuất cần được nâng cấp liên tục./.
- Shinec và VBCWE tổ chức Hội thảo gia tăng quyền năng cho nữ lao động trong các doanh nghiệp thuộc khu công nghiệp
- Trí tuệ nhân tạo (AI) giúp nâng cao năng suất lao động, gia tăng lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp