Bài trước:

Một số ý kiến góp ý Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) tại Bình Phước Một số ý kiến góp ý Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) tại Bình Phước

4. Chương IV. Địa giới hành chính, điều tra cơ bản về đất đai

Thống nhất với nội dung của dự thảo

5. Chương V. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

5.1. Điều 60: Tại điều này có 02 khoản 6; đề nghị lấy theo nội dung khoản 6 dưới cho đầy đủ: “Sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả; khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.”

5.2. Điều 62: Tại Điều 62 dự thảo Luật quy định: Thời kỳ quy hoạch sử dụng đất các cấp là 10 năm. Thời kỳ kế hoạch sử dụng đất quốc gia, cấp tỉnh là 05 năm; kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được lập hàng năm.

Như vậy, hàng năm cấp huyện phải lập kế hoạch sử dụng đất trình UBND cấp tỉnh phê duyệt, làm cơ sở thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.

Trên thực tế công tác lập, phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện phải trải qua nhiều khâu như: Đấu thầu lựa chọn đơn vị tư vấn; tổng hợp nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân; lấy ý kiến góp ý; trình thẩm định, phê duyệt. Những tổ chức, cá nhân phát sinh nhu cầu sử dụng đất sau khi kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được phê duyệt phải đợi phê duyệt kế hoạch sử dụng đất của năm sau hoặc đến khi kế hoạch sử dụng đất được điều chỉnh, bổ sung. Như vậy không thể hiện được tính linh hoạt, kịp thời trong việc giải quyết thủ tục về đất đai cho người dân, doanh nghiệp; làm mất ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh cũng như nhu cầu xây dựng nhà ở ổn định cuộc sống của người dân, doanh nghiệp. Mặt khác, kinh phí lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện cũng tương đối lớn; đối với tỉnh Bình Phước trung bình khoảng gần 500 triệu đồng mỗi huyện; nếu tính trên 705 đơn vị hành chính cấp huyện cả nước thì kinh phí để lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện là rất lớn.

Do vậy, đề nghị bỏ quy định lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện. Khi tổ chức, cá nhân có nhu cầu được giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; cơ quan có thẩm quyền xem xét nếu phù hợp với kế hoạch sử dụng đất của cấp tỉnh và quy hoạch sử dụng đất của cấp huyện thì giải quyết giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất cho người dân, doanh nghiệp.

Các đại biểu tham gia đóng góp ý kiến tại hội nghị do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh tổ chức
Các đại biểu tham gia đóng góp ý kiến tại hội nghị do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh tổ chức

5.3. Điều 64: Điểm d khoản 2 Điều 64: Đất cụm công nghiệp (CCN) là một chỉ tiêu trong phát triển công nghiệp trên địa bàn, do đó đề nghị bổ sung nội dung khoanh định các CCN trong nội dung quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, vì:

- Hiện nay việc triển khai dự án đầu tư vẫn còn nhiều vướng mắc bởi các quy định liên quan quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Cụ thể khi lập QH, KH sử dụng đất thì một số dự án chưa đủ cơ sở, căn cứ để đưa vào; nhưng khi QH, KH sử dụng đất đã phê duyệt, chủ đầu tư đề xuất dự án đầu tư lại không được phê duyệt chủ trương đầu tư, các thủ tục pháp lý về đất đai do chưa có trong QH, KH sử dụng đất. Điều này sẽ kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục hành chính của dự án đầu tư, làm mất cơ hội, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, hiệu quả đầu tư của dự án.

- Lập QH sử dụng đất cấp dưới phải căn cứ vào QH sử dụng đất cấp trên, cụ thể là QH sử dụng đất cấp tỉnh phải căn cứ vào QH sử dụng đất cấp Quốc gia, tuy nhiên QH sử dụng đất cấp Quốc gia chưa được phê duyệt, dẫn tới QH sử dụng đất cấp tỉnh chưa có đủ định hướng, căn cứ để xây dựng, phê duyệt… dẫn tới chưa thực hiện được các nội dung liên quan, làm chậm quá trình phát triển của địa phương, điều này cần có quy định để tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai tại địa phương.

- Việc thực hiện QH, KH sử dụng đất được thực hiện đầu kỳ, vì vậy rất khó để xây dựng QH, KH đáp ứng được cả quá trình phát triển của địa phương trong cả kỳ QH; trong quá trình phát triển kinh tế xã hội trong kỳ sẽ có những thay đổi, thực tiễn và nhu cầu phát triển KT-XH thay đổi mà QH, KH sử dụng đất không phù hợp, không đáp ứng kịp, dẫn đến địa phương mất cơ hội phát triển, thu hút đầu tư.

5.4. Điều 65:

- Tại khoản 3 Điều 65: Để tránh trồng chéo và không thống nhất giữa QHSDĐ và QH xây dựng, không lãng phí nguồn lực lập quy hoạch. Tuy nhiên, đề nghị Ban soạn thảo hoặc Chính phủ phải hướng dẫn cụ thể nội dung tại khoản này nhằm đảm bảo thống nhất giữa phương pháp, nguyên tắc lập QHSDĐ, KHSDĐ phải thống nhất với nhau nhất là loại đất (hiện tại loại đất giữa 2 quy hoạch khác nhau nhiều, nhiều loại đất theo quy hoạch xây dựng có nhưng QHSDĐ không có), hơn nữa QHSDĐ, kế hoạch sử dụng đất phải lập tới từng thửa đất, trong khi đó QH xây dựng đô thị là quy hoạch kiến trúc không gian.

- Tại điểm b, khoản 7, Điều 65 dự thảo Luật quy định: “Danh mục các công trình, dự án đã có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn; công trình, dự án đã có chủ trương đầu tư; công trình ngầm, công trình trên không mà không có cùng mục đích với mục đích sử dụng đất tầng bề mặt; diện tích đất để đấu giá quyền sử dụng đất, các dự án thu hồi đất trong năm, dự án tái định cư, đất sản xuất dự kiến bồi thường cho người có đất thu hồi và phải được xác định rõ vị trí, ranh giới, diện tích đến từng thửa đất trên bản đồ địa chính”.

Đề nghị xem xét lại nội dung “phải được xác định rõ vị trí, ranh giới, diện tích đến từng thửa đất trên bản đồ địa chính ”. Vì quy định này sẽ rất khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện trên thực tế, nhất là với các công trình theo tuyến, việc điều chỉnh dư án, nắn tuyến thường xảy ra...

- Tại điểm c khoản 7 Điều 65 dự thảo Luật Đất đai sửa đổi có nêu “Xác định diện tích các loại đất cần chuyển mục đích sử dụng đối với các loại đất phải xin phép trong năm kế hoạch đến từng thửa đất trên bản đồ địa chính”, như vậy, theo quy định trên thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất phải xin phép thì phải đăng ký để đưa vào Kế hoạch sử dụng đất hàng năm, sau khi nhà nước phê duyệt mới được thực hiện và qua thực tế thì nhu cầu chuyển mục đích của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phát sinh hàng ngày, nếu thực hiện theo các điều khoản trên thì mất nhiều thời gian chờ đợi, người dân tự ý xây nhà ở và công trình trên đất, sử dụng đất sai mục đích, ảnh hưởng đến quyền sử dụng đất của người dân, do đó, đề nghị sửa thành “Xác định diện tích các loại đất cần chuyển mục đích sử dụng đối với các loại đất phải xin phép trong năm kế hoạch để giải quyết nhu cầu chuyển mục đích của các công trình dự án và của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.

5.5. Điều 68:

- Điểm a, khoản 1; điểm a, khoản 2; điểm a, khoản 3, Điều 68: Đề nghị thay cụm từ “cộng đồng, cá nhân khác có liên quan” thành “Nhân dân vùng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất” để đảm bảo việc lấy ý kiến người dân tại các vùng quy hoạch cần phải thu hồi đất, kế hoạch sử dụng đất.

- Điểm c khoản 1; điểm c khoản 2; điểm c khoản 3 Điều 68: Quy định thời gian lấy ý kiến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện đều là 30 ngày là chưa hợp lý. Vì vậy, đề nghị chỉnh sửa theo hướng thời gian lấy ý kiến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia là 60 ngày, cấp tỉnh là 45 ngày, cấp huyện là 30 ngày.

5.6. Điều 70: Tại khoản 3 Điều 70 dự thảo Luật quy định: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện

Ủy ban nhân dân cấp huyện trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua quy hoạch sử dụng đất cấp huyện trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.

Ủy ban nhân dân cấp huyện trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt kế hoạch sử dụng đất cấp huyện. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua danh mục công trình, dự án, các khu vực cần thu hồi đất theo quy hoạch trước khi phê duyệt kế hoạch sử dụng đất cấp huyện.”

Đề nghị chỉnh sửa thành: Ủy ban nhân dân cấp huyện trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.

Ủy ban nhân dân cấp huyện trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt kế hoạch sử dụng đất cấp huyện. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua danh mục công trình, dự án, các khu vực cần thu hồi đất theo quy hoạch trước khi phê duyệt kế hoạch sử dụng đất cấp huyện.”

Lý do: Để thống nhất với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 26 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

5.7. Điều 73: Đề nghị bổ sung vào Điều 73 trách nhiệm của UBND xã, phường, thị trấn về viêc công bố công khai nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện đến tổ chức, cá nhân có phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng đất bị mục đích sử dụng hoặc các quyền và lợi ích trực tiếp khác do ảnh hưởng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (hình thức công khai có thể thông báo bằng văn bản trực tiếp hoặc trong cuộc họp).

Trên thực tế, nhiều người dân không biết đất thuộc quyền sử dụng của mình nằm trong quy hoạch nên việc sử dụng đất không phù hợp với quy hoạch, kế hoạch dẫn đến bị thiệt hại đáng kể (cụ thể như: trồng cây lâu năm, cải tạo công trình trên đất để thực hiện kinh doanh…)

5.8. Điều 74:

- Đề nghị xem xét sửa đổi khoản 2 Điều 74, như sau: “Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và thực hiện đầy đủcác quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật, trừ quyền chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái với mục đích quy hoạch.” Lý do: quy định như trên để bảo đảm các quyền của người sử dụng đất, tránh tình trạng người sử dụng đất bị hạn chế các quyền khi đất nằm trong quy hoạch.

- Khoản 3 Điều 74 quy định:“3. Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất cấp huyện thì người sử dụng đất trong khu vực phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch được tiếp tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm; nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.”

Nội dung này sử dụng cấu trúc câu với ngữ pháp phức tạp chưa đáp ứng theo yêu cầu xây dựng văn bản luật phải mang tính phổ biến, đơn giản, dễ hiểu. Do đó, đề nghị điều chỉnh lại như sau:“3. Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất cấp huyện thì người sử dụng đất, mà đất đó năm trong khu vực phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch, được tiếp tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm; nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.”

- Tại khoản 6, Điều 74, dự thảo Luật: Đề nghị điều chỉnh thành: “6. Khi kết thúc kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mà các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa thực hiện hết thì được tiếp tục thực hiện đến khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kỳ tiếp theo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phê duyệt”.

- Đề nghị bổ sung thêm một khoản quy định về trường hợp dự án đã có thông báo thu hồi đất, cụ thể: “Trường hợp đã có văn bản thông báo thu hồi đất (theo Điều 83 của Luật này) thì người sử dụng đất không được thực hiện các quyền của người sử dụng đất và thực hiện theo thông báo thu hồi đất, kế hoạch điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt”. Lý do: Sau khi thông báo thu hồi đất, lập hồ sơ tổ chức kế hoạch điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Nếu người sử dụng đất thực hiện các quyền (chuyển nhượng, tặng cho...) cho người sử dụng đất khác thì phải lập lại hồ sơ, thay đổi đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, đặc biệt là đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp để được các khoản hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp theo quy định.

ội nghị lấy ý kiến dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
Hội nghị lấy ý kiến dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) tại huyện Chơn Thành.

6. Chương VI. Thu hồi đất, trưng dụng đất

6.1. Điều 77: Tại khoản 9 Điều 77: Đề nghị xem lại nhà khách của lực lượng vũ trang nhân dân có kinh doanh hay không kinh doanh.

6.2. Điều 78:

- Tại khoản 1 quy định…. dự án công trình công cộng không nhằm mục đích kinh doanh…” như vậy quá chung khó áp dụng. Đề nghị xem xét, bổ sung quy định cụ thể như: trường hợp thu hồi đất để thực hiện dự án trụ sở làm việc của cơ quan Nhà nước, dự án công trình sự nghiệp không có mục đích kinh doanh như: xây dựng trụ sở của tổ chức sự nghiệp; đất xây dựng cơ sở văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, khí tượng thủy văn, ngoại giao và công trình sự nghiệp khác.

- Đề nghị bỏ điểm d, khoản 2: “Dự án xây dựng cơ sở tôn giáo”. Lý do: Vấn nạn hiện nay là lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xây dựng chùa, tượng, cơ sở thờ tự phục vụ mục đích kinh doanh, đi trái với tôn chỉ của đạo Phật. Vì vậy, cần ngăn chặn ngay tình trạng này càng sớm càng tốt. Không thể để nhà nước đứng ra thu hồi đất phục vụ lợi ích của một số cá nhân núp bóng tôn giáo kinh doanh thu lợi.

- Bổ sung thêm Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Trung tâm logistic vào mục đích phát triển kinh tế xã hội. Lý do: Theo xu hướng phát triển kinh tế trong giai đoạn tới, chúng ta phải khuyến khích đầu tư phát triển các Trung tâm hoặc Khu logistic với quy mô lớn, phục vụ cho kinh doanh, thương mại, vận tải hàng hóa. Nếu đưa loại hình dự án trên vào đất thương mại dịch vụ, Nhà nước không thu hồi đất thì việc Nhà đầu tư phải tự thỏa thuận với người dân với diện tích lớn để thực hiện loại hình dự án nêu trên là rất khó khăn, ảnh hưởng tới phát triển kinh tế xã hội.

- Cần bổ sung thêm quy định chuyển tiếp đối với các dự án đang thực hiện thu hồi đất thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo khoản 3, Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 mà nay không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật sửa đổi để có cơ sở thực hiện khi Luật sửa đổi có hiệu lực thi hành.

- Tại điểm g, khoản 2 Điều 78 dự thảo Luật quy định: Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng có trường hợp thu hồi đất đối với “khu sản xuất, chế biến nông sản, lâm sản, hải sản tập trung”.

Hiện nay theo quy định của Luật Đầu tư và các Nghị định hướng dẫn có quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, cụm công nghiệp; không quy định về “khu sản xuất, chế biến nông sản, lâm sản, hải sản tập trung”. Do vậy, đề nghị phải quy định rõ nội dung này để có cơ sở thực hiện việc thu hồi đất.

- Tại điểm h, i khoản 2 Điều 78 và điểm a khoản 3 Điều 78 của dự thảo Luật quy định loại đất của dự án đô thị, dự án khu dân cư nông thôn, dự án nhà ở thương mại là “sử dụng các loại đất không phải là đất ở”. Việc quy định như trên sẽ khó thực hiện do đa phần khi thu hồi đất để thực hiện các dự án này sẽ có một phần đất ở. Do đó, đề nghị đơn vị soạn thảo xem xét nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung quy định này cho phù hợp.

- Tại khoản 3, khoản 4 Điều 78 có điểm a, c, d mà không có điểm b, đề nghị chỉnh sửa lại bố cục cho phù hợp. Việc liệt kê các điều kiện, tiêu chí theo khoản 4 Điều 78 là cần thiết những cũng dễ dẫn đến thiếu trên thực tế vì dễ phát sinh các trường hợp khác như: Xây dựng “khu thử nghiệm áp dụng đối với các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới” ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế như một số nước trên thế giới đã thực hiện.

- Cần làm rõ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

+ Thứ nhất: Trong thực tế đã xảy ra các trường hợp ban đầu Nhà nước thu hồi đất để phục vụ mục đích công cộng, sau đó một thời gian lại chuyển đất đó sang đất thương mại dịch vụ. Lúc này, mới bắt đầu phát sinh khiếu nại vì người dân cho rằng Nhà nước thu hồi đất nhưng sử dụng không đúng mục đích như ban đầu.

+ Thứ hai: Khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ mục đích công cộng thì giá đền bù sẽ thấp hơn so với trường hợp thu hồi đất để phục vụ vào mục đích thương mại. Nếu Nhà nước thu hồi đất để giao cho nhà đầu tư thực hiện dự án thương mại, dịch vụ, giá đất phải có thỏa thuận với người bị thu hồi. Việc này khắc phục tình trạng lúc thu hồi thì bồi thường giá thấp, nhưng khi xây dựng hạ tầng cho thuê thì giá gấp 5 – 7 lần, gây bức xúc trong nhân dân và xã hội.

6.3. Điều 79: Đề nghị bổ sung thêm khoản 4 vào Điều 79 “4. Danh mục công trình, dự án, các khu vực cần thu hồi đất theo quy hoạch đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua”.

6.4. Điều 82: Đề nghị bỏ điểm d khoản 2 Điều 82. Lý do: Cho phù hợp với thầm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định tại Điều 123 dự thảo Luật Đất đai sửa đổi và thẩm quyền xác định giá đất cụ thể trường hợp thu hồi đất tại điểm a khoản 2 Điều 155 dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, đồng thời, phù hợp với điều kiện, năng lực về chuyên môn, nghiệp vụ, công tác quản lý nhà nước về đất đai của cấp tỉnh so với cấp huyện.

6.3. Điều 83:

- Tại khoản 1 Điều 83 dự thảo Luật, đề nghị rút ngắn thời gian gửi văn bản thông báo thu hồi đất chậm nhất là 60 ngày đối với đất nông nghiệp và 120 ngày đối với đất phi nông nghiệp, lý do: Để thực hiện nhanh các dự án thu hồi đất.

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 83 dự thảo Luật: Đề nghị cần quy định rõ đối với trường hợp thửa đất thu hồi có cả đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp thì tính thời gian theo đất nông nghiệp hay phi nông nghiệp. Hơn nữa để ban hành được thông báo thu hồi đất phải xác định được diện tích đất thu hồi, do đó phải đo đạc lập bản đồ giải thửa thửa phục vụ công tác thu hồi đất, thu thập các giấy tờ về đất, về chủ sử dụng đất…. để xác định đối tượng bồi thường (do cơ sở dữ liệu về đất đai chưa đầy đủ nên khó xác định được thông tin chủ sử dụng). Tuy nhiên dự thảo sửa đổi Luật chưa có quy định nội dung trước khi thông báo thu hồi đất phải làm gì, người có đất thu hồi đất không hợp tác, không cho đo đạc, không cung cấp hồ sơ … thì trình tự thực hiện như thế nào. Đề nghị bổ sung hoặc hướng dẫn thi hành ở Nghị định.

Đại diện nhân dân thị xã Chơn Thành, phát biểu ý kiến góp ý đối dự thảo Luật đất đai (sửa đổi)
Đại diện nhân dân thị xã Chơn Thành, phát biểu ý kiến góp ý đối dự thảo Luật đất đai (sửa đổi)

6.4. Điều 84: Đề nghị bổ sung đại diện chủ dự án trong thành phần của Hội đồng bồi thường.

6.5. Điều 85:

- Điểm c và d khoản 2 Điều 85 dự thảo Luật, đề nghị điều chỉnh như sau:

“2. Xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm được quy định như sau:

c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và ký xác nhận kết quả điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất;

d) Trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, không ký xác kết quả điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản thực hiện.”.

- Tại điểm d, khoản 2:. “….Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất vẫn không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định kiểm đếm bắt buộc….”. Như vậy, đối với trường hợp người có đất thu hồi không phối hợp trong việc tổ chức vận động, thuyết phục như không gặp, cố tình vắng mặt tại địa phương… (không gặp được để vận động thuyết phục được- không vận động được) thì có tiến hành kiểm đếm bắt buộc được không. Đề nghị cần quy định rõ nội dung này, thực tiễn làm đang rất vướng đối với trường hợp này, nếu không quy định rõ sẽ vướng về mặt pháp lý. Đồng thời, nên quy định thời gian tổ chức vận động, thuyết phục từ 10 ngày thành 30 ngày, nhằm đảm bảo thời gian tổ chức thực hiện.

- Tại khoản 3 quy định về tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tuy nhiên không quy định rõ sau khi đối thoại, người có đất thu hồi vẫn không đồng ý thì thực hiện như thế nào. Do đó, cần quy định rõ nội dung này để người có đất thu hồi không vịn vào lý do tôi không đồng ý với dự thảo phương án bồi thường mà vẫn phê duyệt.

- Tại điểm a khoản 3: Đề nghị điều chỉnh như sau:“a) Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi ít nhất là 20 ngày, kể từ ngày niêm yết. Trường hợp người sử dụng đất bị thu hồi vắng mặt khi tổ chức lấy ý kiến thì Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm gửi dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người sử dụng đất vắng mặt để lấy ý kiến bằng văn bản".

Lý do: Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã cụ thể trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, nên đề xuất cụ thể thời gian niêm yết ít nhất là 20 ngày, kể từ ngày niêm yết như theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2023 của Chính phủ.

- Điểm a, khoản 3, Điều 85 dự thảo quy định: “Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi”. Đề nghị bổ sung thêm đối tượng là “cán bộ khu phố, ấp, một số người dân có uy tín tại khu vực thu hồi đất”, vì đây là những người trung gian sẽ giải thích thêm về lợi ích của việc giải tỏa đền bù và hạn chế sự đối đáp qua lại giữa cơ quan nhà nước và người bị thu hồi đất.

- Tại điểm a khoản 4 Điều 85, đề nghị quy định cụ thể hơn về thời gian ban hành quyết định thu hồi đất. Đề xuất ngay sau khi có quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

- Theo quy định tại điểm a, khoản 4 Điều 85: Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 82 của Luật này quyết định thu hồi đất sau khi có quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; và tại khoản 6, quy định: “Việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành bố trí tái định cư, trừ trường hợp tái định cư tại chỗ hoặc người có đất bị thu hồi đồng ý nhận tiền bồi thường để tự lo chỗ ở hoặc người có đất bị thu hồi đồng ý.”

Theo quy định trên thì việc ban hành quyết định thu hồi đất chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành bố trí tái định cư. Nhưng hoàn thành ở mức nào thì không có quy định (tại thời điểm ban hành quyết định giao đất tái định cư, hay phải giao đất TĐC ngoài thực địa, hay chỉ dừng ở mức là quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư). Hơn nữa theo quy định tại khoản 1, Điều 106 của dự thảo 1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất.” , vậy việc thu hồi đất để làm khu tái định cư thì thực hiện như thế nào khi chưa có quỹ đất tái định theo quy định của dự thảo luật. Do đó, đề nghị cần quy định rõ nội dung này.

- Đề nghị bổ sung quy định trình tự thu hồi đất vắng chủ, không tìm thấy chủ sử dụng: Theo dự thảo chưa có quy định về trình tự thủ tục thu hồi đất đối với trường hợp vắng chủ, không tìm thấy chủ sử dụng đất mặc dù đã dùng mọi biện pháp. Do đó, đề nghị bổ sung quy định rõ việc thu hồi đất đối với các trường hợp này để co cơ sở pháp lý triển khai thực hiện. Nội dung này cũng liên quan đến việc cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc quy định tại Điều 86 của dự thảo Luật. Lý do: Hiện nay cơ sở dữ liệu đất đai của chúng ta chưa hoàn thiện, việc xác định chủ sử dụng gặp nhiều khó khăn, không xác định được khi người có đất thu hồi không hợp tác. Thực tiễn tại địa phương có những dự án có hàng trăm thửa đất không tìm thấy chủ sử dụng nên rất khó khăn cho việc thực hiện trình tự thủ tục thu hồi đất đối với trường hợp này.

- Theo dự thảo quy định nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, do đó, đề nghị cần thể chế hóa các quy định nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi, cụ thể hóa các tiêu chí thế nào là “tốt hơn nơi ở cũ”…Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm khách quan, dân chủ, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật, việc tái định cư bảo đảm các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, tránh xảy ra các tranh chấp, khiếu nại kéo dài dễ trở thành điểm nóng cho các đối tượng thù địch lợi dụng các quyền tự do dân chủ để kích động, chống phá Đảng và Nhà nước.

6.4. Điều 86:

- Tại điều này quy định về cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2013 và dự thảo Luật Đất đai sửa đổi chưa điều chỉnh trường hợp người sử dụng đất không đồng ý kiểm đếm hoặc vắng chủ (chưa tìm được chủ sử dụng đất) đối với các công trình, dự án có hành lang bảo vệ an toàn mà không thu hồi đất nằm trong phạm vi hành lang an toàn do hạn chế khả năng sử dụng đất. Do đó, kiến nghị bổ sung quy định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc, cưỡng chế thi công đối với các công trình, dự án có hành lang bảo vệ an toàn mà không thu hồi đất nằm trong phạm vi hành lang an toàn.

- Điểm a khoản 2 Điều 86: Đề nghị chỉnh sửa thành “a) Người có đất thu hồi,có đất bị ảnh hưởng bởi hành lang công trình, dự án chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không chấp hành quyết định kiểm đếm bắt buộc sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục”.

6.5. Điều 87: Đề nghị xem xét, bổ sung thêm một điểm tại khoản 1: “Không thực hiện cưỡng chế đối với nơi ở duy nhất của người sử dụng đất hoặc người sử dụng đất là phụ nữ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ, người có công với cách mạng, người cao tuổi khi chưa bố trí được nơi ở khác có điều kiện tương đương hoặc tốt hơn nơi ở bị cưỡng chế.”. Lý do: đảm bảo tính nhân đạo của chế độ.