ISSN-2815-5823

Phát triển nguồn nhân lực bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

(KDPT) - Những thành tựu về khoa học và công nghệ trong chuyển đổi số đã tạo ra một thách thức không nhỏ về tư duy, khả năng đối với nhân lực để có thể thích nghi, đáp ứng. Vì vậy, cần phát triển bền vững nhân lực, nhằm nâng cao khả năng làm chủ được các thành tựu của cách mạng công nghiệp, đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi số là một vấn đề hết sức quan trọng.

Trên cơ sở phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng bền vững nhằm tạo động lực và điều kiện cho chuyển đổi số phát triển, tạo động lực cho nền kinh tế phát triển trong giai đoạn tới.

1. Giới thiệu

Trong những năm tới, chuyển đổi số là xu hướng tất yếu của Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng để phát triển và chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực, Việt Nam phải vượt qua một số thách thức, trong đó có thách thức về nguồn nhân lực. Chuyển đổi số phát triển đòi hỏi phải có nguồn nhân lực số để triển khai, tổ chức thực hiện và vận hành nền kinh tế một cách hiệu quả. Chuyển đổi số phát triển sẽ dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ về lao động, quá trình chuyển đổi số sẽ vừa làm mất việc làm nhưng cũng sẽ tạo ra việc làm mới.

Chuyển đổi số phát triển đòi hỏi phải có nguồn nhân lực số để triển khai. (Ảnh minh họa)

Theo dự báo của các chuyên gia của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), đến năm 2025 máy móc và con người sẽ có thời gian làm việc tương đương, máy móc sẽ thay thế vị trí của con người khiến cho 85 triệu việc làm có thể bị mất đi. Tuy nhiên, bên cạnh đó lại có những việc làm mới được tạo ra trong những ngành cần sự bổ trợ tương hỗ giữa công nghệ hiện đại và lao động có tay nghề. Chuyển đổi số sẽ làm thay đổi lớn về cơ cấu lao động và thị trường lao động. Sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ gây ra sự bất ổn thị trường lao động, làm gia tăng nỗi lo mất việc do tự động hóa và Việt Nam cùng các nước trong khu vực có thể mất đi lợi thế so sánh dựa trên chi phí lao động thấp. Chuyển đổi số mang lại những cơ hội phát triển lớn, nhưng người lao động cần phải được chuẩn bị những kỹ năng và năng lực phù hợp với nhu cầu công việc trong tương lai.

2. Chuyển đổi số và yêu cầu đặt ra cho phát triển nguồn nhân lực bền vững

Chuyển đổi số là khái niệm thường được nhắc đến trong khoảng 20 năm trở lại đây, được biết đến như là một sản phẩm của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Đối với mỗi ngành, lĩnh vực khác nhau thì quá trình chuyển đổi số sẽ có sự khác biệt nhất định, tùy thuộc vào cơ sở hạ tầng, hệ sinh thái cũng như mức độ ưu tiên thực hiện. Chuyển đổi số là sự “tích hợp các công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp, tận dụng các công nghệ để thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng của doanh nghiệp đó cũng như tăng tốc các hoạt động kinh doanh. Chuyển đổi số cũng là một sự thay đổi về văn hóa của các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải liên tục thay đổi, thử nghiệm cái mới và thoải mái chấp nhận các thất bại”. Nói cách khác, chuyển đổi số thường được hiểu theo nghĩa “là quá trình thay đổi từ mô hình doanh nghiệp truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud Computing)... nhằm thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty”. Từ đó, một cách khái quát và ngắn gọn nhất, có thể hiểu khái niệm chuyển đổi số là việc thực hiện số hóa, ứng dụng công nghệ số vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm tăng hiệu quả hoạt động, phát huy tối đa năng suất lao động và mang lại giá trị kinh tế cao cho các ngành nghề, lĩnh vực khi áp dụng chuyển đổi số.

Khái niệm phát triển nguồn nhân lực bền vững chỉ mới xuất hiện ở nước ta những năm gần đây khi mô hình tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế được đề cao. Phát triển nguồn nhân lực bền vững về thực chất là tổng thể các hoạt động đào tạo có tổ chức được tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định nhằm tạo ra sự thay đổi về năng lực nghề nghiệp của người lao động theo hướng tích cực. Từ đó, nâng cao chất lượng lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp.

Phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số cần đáp ứng được các yêu cầu, gồm có: (1) Khả năng thích ứng và làm chủ được các thiết bị công nghệ số và những ứng dụng số hóa đi kèm trong quá trình tương tác các hoạt động của nền kinh tế; (2) Tính sáng tạo là yêu cầu và cũng là đòi hỏi bắt buộc phải có của nguồn nhân lực số; (3) Tính tổ chức và ý thức kỷ luật cao độ nhằm bảo đảm rằng các hoạt động vận hành luôn được tuân thủ chính xác. Do đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng liên tục cho nguồn nhân lực trước những biến chuyển của các thành tựu kỹ thuật, khoa học, công nghệ được ứng dụng trong quá trình sản xuất và kinh doanh trên thị trường.

3. Thực trạng nguồn nhân lực của Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

3.1. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay

Nguồn nhân lực của Việt Nam đang ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2022, quy mô dân số cả nước ước đạt 100 triệu người, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021. Trung bình mỗi năm có khoảng 500 nghìn người gia nhập lực lượng lao động. Riêng trong năm 2020 và 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước giảm 1,2 triệu người so với năm 2019, chủ yếu là do sự sụt giảm ở khu vực nông thôn (giảm hơn 1,1 triệu người). Trong số lực lượng lao động năm 2020, có 53,4 triệu người đang làm việc, trên 1 triệu người thất nghiệp; khoảng 17,3 triệu người (số liệu năm 2018 và 2019) không hoạt động kinh tế vì các lý do khác nhau.

Chuyển đổi số mang lại những cơ hội phát triển lớn. (Ảnh minh họa)

Không chỉ gia tăng về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam cũng có những cải thiện rõ rệt. Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 2020), trong 10 năm (năm 2010 đến năm 2020) chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69. Bước sang năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam trong nhóm phát triển khá đứng thứ 115/191 quốc gia. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực của Việt Nam có khả năng chuyển đổi, ứng dụng công nghệ số để xây dựng kỹ thuật số trong thời kỳ cách mạng 4.0. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập, mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực. Điều này phản ánh những thành tựu lớn trong giáo dục phổ thông và y tế trong những năm qua. Do đó, trong giai đoạn 2000- 2017, phát triển vốn nhân lực đóng góp khoảng 1/3 tăng trưởng GDP bình quân đầu người.

Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự cải thiện rõ rệt. Số lao động có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công việc được giao đang ngày càng tăng lên. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê (2020), tỷ trọng người lao động có trình độ sơ cấp chiếm 4,7%; trung cấp chiếm 4,3%; cao đẳng 3,7%; đại học trở lên 10,9%. Tỷ trọng này ở các trình độ cao đẳng và đại học ngày càng có xu hướng gia tăng, từ 8,7% trình độ đại học năm 2016 lên 10,9% năm 2020. Bước sang năm 2021, lao động đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp” trở lên là 26,1%, tăng 0,8 điểm phần trăm so với năm trước. Tất cả những yếu tố này đã góp phần nâng cao năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian qua. Theo báo cáo chỉ số phát triển con người Việt Nam (2021), năng suất lao động của toàn nền kinh tế Việt Nam theo giá hiện hành ước đạt 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với năm 2020). Theo giá so sánh, năng suất lao động trong năm 2021 tăng 4,71% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 25,3% của năm 2020).

Tuy nhiên, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở Việt Nam còn khá lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Hiện nay, nước ta đang thiếu công nhân có kỹ năng lao động cao, thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực, nhưng thừa lao động thủ công, không qua đào tạo. Trong khi đó, cạnh tranh quốc tế bằng lao động phổ thông, giá nhân công rẻ không mang lại hiệu quả cao. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Theo đó, khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức tương đối thấp và chênh lệch tuyệt đối tiếp tục xu hướng gia tăng. Năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia; gần tương đồng với Myanmar và Lào; thấp hơn Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Trung Quốc, Thái Lan và thấp hơn rất nhiều so với Malaysia cũng như Singapore. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào đóng góp của yếu tố vốn và lao động với mức đóng góp bình quân giai đoạn 2016- 2020 là 54,28%, trong đó đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này cao hơn đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Chất lượng nguồn nhân lực thấp là một trong những thách thức rất lớn của Việt Nam trong bối cảnh của cuộc CMCN 4.0; nhất là, khi nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã đưa ra dự báo rằng, “Trong 2 thập kỷ tới, khoảng 56% số người lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc vì robot, đặc biệt là trong ngành may mặc”. Ngoài ra, sự phát triển của chuyển đổi số sẽ làm mất đi một số lượng lớn công việc, thay thế tới 1/3 lực lượng lao động chế biến nông sản, thay thế 26% số lao động trong ngành logistics ở Việt Nam. Điều này đặt ra những thách thức rất lớn cho Việt Nam trong việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực hướng vào nâng cao năng suất lao động để có thể bắt kịp với mức năng suất lao động của các quốc gia trong khu vực.

3.2. Những tồn tại, hạn chế của nguồn nhân lực Việt Nam trong chuyển đổi số

Mặc dù, có sự cải thiện rõ rệt về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, song so với yêu cầu chuyển đổi số, nguồn nhân lực và quá trình quản lý, phát triển nguồn nhân lực Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể như sau:

(i) Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực Việt Nam tuy được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thể hiện tỷ lệ người lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi số. Trong tổng số nguồn nhân lực của Việt Nam, mới có xấp xỉ 1,2 triệu lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nhưng nhân lực tính từ cao đẳng trở lên chỉ khoảng 550.000 người. Như vậy, trong cơ cấu nguồn nhân lực, tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin trên tổng lao động của nền kinh tế Việt Nam đạt hơn 1%. Đây là tỷ lệ tương đối thấp so với các quốc gia như Mỹ (4%), Hàn Quốc (2,5%), Ấn Độ (1,78%). Bên cạnh đó, mức độ cải thiện và chênh lệch về trình độ học vấn là đáng kể giữa khu vực thành thị và nông thôn. Đây là dấu hiệu cho thấy sự phân cấp, mất cân đối nguồn nhân lực giữa các vùng miền và tất yếu sẽ kéo theo chênh lệch mức sống dân cư, về phát triển kinh tế - xã hội giữa các khu vực và có thể xem là lỗ hổng lớn về chất lượng lao động của Việt Nam hiện nay. Nguồn nhân lực chất lượng cao đang thiếu hụt trầm trọng và mới chỉ đáp ứng được gần 40% nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nguồn nhân lực trẻ sau khi ra trường chưa thể làm việc ngay mà vẫn cần quá trình đào tạo, bồi dưỡng thêm. Các kỹ năng sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, ngoại ngữ của đội ngũ nhân lực còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, không chỉ thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin, mà rất nhiều cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và đông đảo người dân còn thiếu kỹ năng để tham gia chuyển đổi số. Việt Nam có điều kiện trong việc phát triển nguồn nhân lực số, song sự phát triển đó đang chưa tương xứng với tiềm năng. Tỷ lệ nhân lực qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ tăng nhưng so với tổng nhân lực đang làm việc trong ngành còn thấp, đặc biệt còn thiếu nhiều nhân lực trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây...

Để đảm bảo mục tiêu chuyển đổi số quốc gia thành công, góp phần thức đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, phát triển nguồn nhân lực bền vững là yếu tố then chốt. (Ảnh minh họa)

(ii) Sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm, phân bổ lao động không đồng đều giữa các vùng, ngành kinh tế (lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm trên dưới 70%, tỷ lệ lao động - cả lao động giản đơn và chất lượng cao) chủ yếu tập trung ở các vùng đô thị, một số khu vực được coi là các trung tâm kinh tế lớn, như Hà Nội, TP.HCM. Trong khi, một số khu vực khác có nhu cầu lại rất khó thu hút lao động như các các khu công nghệ tại miền Trung, vùng Đông Nam Bộ, các vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước...

(iii) Thiếu cơ chế, chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực quốc gia hướng tới một số ngành, lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh. Định hướng các lĩnh vực ngành nghề còn mờ nhạt, thiếu sự liên kết giữa cơ sở đào tạo và thị trường lao động. Điều đó dẫn đến tình trạng vừa thừa và vừa thiếu nhân lực tại một số lĩnh vực, ngành nghề và địa phương.

(iv) Năng lực đào tạo nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực đáp ứng khả năng chuyển đổi số còn hạn chế. Theo báo cáo của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, hiện nay, Việt Nam có khoảng hơn 240 trường đại học, trong đó gần 160 trường có chuyên ngành đào tạo kỹ thuật: Công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông, an toàn thông tin. Hằng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành này vào khoảng hơn 53.000 (nếu tính cả đào tạo cao đẳng, trung cấp thì con số này vào khoảng hơn 65.000). Với năng lực đào tạo này, trong những năm gần đây, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt nguồn nhân lực kỹ thuật cao để thực hiện chuyển đổi số, trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ngày càng cao để thực hiện chuyển đổi số.

4. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực bền vững hướng tới tăng trưởng xanh trong thời gian tới

Để xây dựng và phát triển bền vững nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, thì cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, thực hiện có hiệu quả Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030 theo Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 5/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, đặt mục tiêu chỉ số lao động có kiến thức chuyên môn trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 60 nước đứng đầu vào năm 2025 và 55 nước đứng đầu vào năm 2030; tỷ lệ lao động có các kỹ năng công nghệ thông tin đạt 90% vào năm 2030. Để thực hiện được điều này và cũng là giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo, xác định đúng đắn chiến lược phát triển nguồn nhân lực tầm nhìn đến năm 2050.

Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách xây dựng, phát triển và quản lý nguồn nhân lực cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay. Hệ thống các chính sách cần đảm bảo được các yêu cầu, như:

(i) Xây dựng một nguồn nhân lực với cơ cấu và số lượng hợp lý qua từng giai đoạn phát triển của đất nước;

(ii) Từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đảm bảo yêu cầu phát triển của từng địa phương, ngành và lĩnh vực;

(iii) Xây dựng, phát triển và phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực tại chỗ để phát triển các nội dung kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương, ngành và lĩnh vực..;

(iv) Thu hút tiềm năng về nguồn nhân lực (đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao) ở ngoài nước tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước;

(v) Khuyến khích các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đồng thời giảm thiểu tối đa tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm gây ảnh hưởng tới đời sống và quá trình phát triển nguồn nhân lực...

Ba là, tập trung các giải pháp về giáo dục và đào tạo để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, như:

(i) Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ; triển khai các hoạt động đào tạo kiến thức, kỹ năng về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các trường phổ thông;

(ii) Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các trường, trung tâm dạy nghề trên phạm vi cả nước. Trước mắt cần rà soát và tiến hành quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề trong cả nước, đặc biệt là hệ thống dạy nghề tại các địa phương vốn thu hút một lượng lớn lao động của cả nước; xây dựng và đầu tư nâng cấp để tạo ra hệ thống các trường dạy nghề chất lượng cao. Chú trọng nâng cao trình độ của giáo viên và trang thiết bị dạy nghề đáp ứng sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng phát triển của thế giới và phù hợp với yêu cầu thị trường lao động trong nước;

(iii) Xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của nền kỹ thuật số. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần kết hợp với các bộ, ngành cụ thể, giữa doanh nghiệp với các trường đại học, viện nghiên cứu để dự báo được nhu cầu lao động. Đồng thời, xây dựng chương trình đào tạo số chú trọng đào tạo tri thức công nghệ thông tin, viễn thông, kỹ năng ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong lao động sản xuất cho học sinh từ bậc học phổ thông. Các trường cần xây dựng hệ thống học liệu số, thư viện số giúp phát huy khả năng tự học, tiếp cận thông tin tri thức của người học, người cần nghiên cứu. Về phần các trường cũng phải thay đổi chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp dạy và học, nâng cao trình độ giảng viên để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Cơ sở giáo dục đại học chuyển đổi xu hướng đào tạo, từ đào tạo cái mình có sang đào tạo theo đơn đặt hàng của thị trường. Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp nhằm giúp các sinh viên có cơ hội vừa học vừa làm, trải nghiệm môi trường thực tế ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Các chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cần được đổi mới theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực; bên cạnh các kiến thức trong sách vở, người học cần được thực hành nhiều hơn, cũng như cần được trang bị thêm các kỹ năng mềm nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội;

(iv) Định hướng giáo dục theo nhu cầu nhằm tạo ra sự cân bằng trong đào tạo và sử dụng nhân lực ở các ngành nghề, vùng, miền và các thành phần kinh tế, tránh lãng phí không cần thiết khi đào tạo lao động có bằng cấp mà không được sử dụng hay sử dụng sai so với nội dung đào tạo. Hệ thống giáo dục quốc dân cần được hoàn thiện theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.

Bốn là, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp và người lao động trong việc tự đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác phát triển nguồn nhân lực theo hướng Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động học nghề thông qua định hướng thông tin, cơ chế, chính sách. Người lao động chủ động nắm bắt thông tin, tự đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, tiếp cận thị trường lao động, tìm kiếm việc làm. Về phía các doanh nghiệp, do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, sẽ có những ngành nghề phải cập nhật lại kiến thức trong một thời gian ngắn, trong khi người lao động không thể quay trở lại trường để học, vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải tự tổ chức các hoạt động giảng dạy, cập nhật kiến thức ngay tại đơn vị. Sự tham gia của doanh nghiệp với vai trò của người sử dụng lao động trong đào tạo không chỉ góp phần giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước về đầu tư cơ sở vật chất, mà còn giúp định hướng, đào tạo những lao động có kỹ năng phù hợp với nhu cầu thị trường, nhất là đáp ứng những yêu cầu về thay đổi trong sản xuất của công nghiệp 4.0.

Năm là, khuyến khích phát triển thị trường lao động. Đẩy nhanh tốc độ phát triển thị trường lao động, giới thiệu việc làm. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển thị trường lao động từ khâu tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm trong nước và xuất khẩu... tạo được sự liên kết chặt chẽ giữa kết quả phát triển nguồn nhân lực với sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.

5. Kết luận

Để đảm bảo mục tiêu chuyển đổi số quốc gia thành công, góp phần thức đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, phát triển nguồn nhân lực bền vững là yếu tố then chốt. Tuy nhiên, nguồn nhân lực hiện nay ở Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế về chất lượng, nhận thức và khả năng thích ứng. Giải quyết thách thức này cần có các giải pháp tháo gỡ đồng bộ từ phía cơ quản quản lý nhà nước, doanh nghiệp sử dụng lao động và bản thân người lao động nhằm hướng tới phát triển nguồn nhân lực bền vững trong bối cảnh chuyển đổi số./.

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Công Nhất (2021), Phát triển nguồn nhân lực bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, truy cập từ https://tuyengiao. vn/tuyen-truyen/phat-trien-nguon-nhan-luc-ben-vung-trong-boi-canh-hoinhap-quoc-te-o-nuoc-ta-hien-nay-35403.

2. Ngân hàng Thế giới -WB (2020), Báo cáo công bố Chỉ số vốn nhân lực (Human Capital Index-HCI), truy cập từ https://www.worldbank.org/vi/ news/press-release/2020/09/16/pandemic-threatens-human-capital-gainsof-the-past-decade-new-report-says.

3. Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 5/02/2021 ban hành Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động.

4. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 146/QĐ-TTg, ngày 28/01/2022 phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

5. Tổng cục Thống kê (2020-2023), Niên giám Thống kê các năm, từ năm 2019 đến năm 2022, Nxb Thống kê.

PGS.TS LÊ TRỌNG TUYẾN
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng



Kinhdoanhvaphattrien.vn | 05/11/2023

eMagazine