TS Lương Văn Khôi, Phó Giám đốc NCIF cho biết, các báo cáo đánh giá về tác động của RCEP đều cho rằng, Hiệp định sẽ mang lại nhiều tác động tích cực tới kinh tế khu vực. Theo đó, tới năm 2030, sẽ làm tăng thu nhập của toàn khu vực khoảng 0,6%, tương đương với tăng thêm mỗi năm 245 tỷ USD và tạo thêm 2,8 triệu việc làm. Những nước có tăng trưởng định hướng xuất khẩu (XK) sẽ là những nước được hưởng lợi nhiều hơn.

Đối với Việt Nam, các nghiên cứu gần đây đều chỉ ra Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều từ RCEP. Nghiên cứu của WB (2022) dự báo rằng GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm khoảng 4,9% và XK tăng ở mức 11,4% tới năm 2030.

RCEP sẽ mở rộng cánh cửa các chuỗi cung ứng mới cho doanh nghiệp Việt
Đầu tư FDI của các nước RCEP, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Trung Quốc sẽ tiếp tục định hình các chuỗi ở Việt Nam.

Tuy nhiên, một số phân tích khác cũng chỉ ra RCEP sẽ đặt ra khá nhiều vấn đề với Việt Nam. Lợi ích từ cắt giảm thuế quan là không nhiều do Việt Nam đã và đang thực hiện cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ ASEAN+6 FTA cũng như giữa Việt Nam và các nước trong khu vực đã có nhiều FTA song phương và đa phương khác như VKFTA, VJEPA, CPTPP… Trong khi đó, các quy tắc xuất xứ trong RCEP có thể kích thích nhập khẩu (NK) hàng hóa trung gian vào Việt Nam, đặc biệt là từ Trung Quốc, tạo ra những bất lợi cho phát triển công nghiệp phụ trợ và tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp Việt Nam.

Một khía cạnh khác là ảnh hưởng từ ba đối tác lớn nhất trong RCEP bao gồm Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản. Khi các đối tác này đã đặt được quan hệ tự do thương mại trong khuôn khổ RCEP sẽ tạo ra tác động chuyển hướng thương mại và đầu tư rất lớn đối với các đối tác trong ASEAN. Những tác động đó và những biến động của các xu hướng lớn trong khu vực sẽ tái định hình chuỗi cung ứng ở Việt Nam.

TS Trần Toàn Thắng, Trưởng ban, Ban Dự báo Kinh tế ngành và doanh nghiệp (NCIF) cho biết, tỷ lệ cắt giảm thuế quan giữa hàng tiêu dùng cuối cùng và hàng hoá trung gian và giữa các nhóm ngành khác nhau sẽ làm thay đổi tương quan giá cả, từ đó có thể thay đổi cấu trúc hàng hoá NK. Đầu vào trung gian rẻ hơn có thể làm cho các doanh nghiệp (DN) ở hạ nguồn hiệu quả và năng suất hơn và cũng có khả năng XK nhiều hơn từ đó có thể thúc đẩy các ngành hạ nguồn phát triển thông qua thu hút đầu tư, kể cả FDI và trong nước mở rộng sản xuất theo chiều rộng và chiều sâu. Trong khi đó, cắt giảm thuế quan ở hạ nguồn có thể kích thích đầu tư cả ở hạ nguồn và thượng nguồn. Tuy nhiên, các tác động như vậy không hoàn toàn tích cực một chiều mà vẫn có tác động âm, tuỳ thuộc vào năng lực sản xuất, R&D của cả doanh nghiệp ở cả thượng nguồn và hạ nguồn. Thuế quan giảm ở thượng nguồn có thể làm tăng nhập khẩu ở thượng nguồn vì vậy có thể ảnh bưởng tiêu cực đến các DN thượng nguồn và gây ra đứt gãy chuỗi cung ứng.

Hiện nay, sản xuất của Việt Nam trong các chuỗi cung ứng chủ yếu tập trung vào hạ nguồn với việc gia công, lắp ráp ( điện tử, ô tô , may mặc) hoặc các sản phẩm hoàn thiện có kỹ thuật thấp hoặc trung bình (ngành dệt). RCEP cũng tạo cơ hội để Việt Nam cải thiện giá trị gia tăng và tăng năng suất, khắc phục tình trạng gia công hiện nay bằng cách thúc đẩy mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế theo quy mô, thu hút đầu tư vào các ngành sản xuất thượng nguồn để cải thiện giá trị gia tăng và năng suất lao động; Tăng cường chuyên môn hoá và các ngành mà Việt Nam đang có lợi thế từ đó lôi kéo thêm nhiều FDI trong chuỗi cung ứng đến Việt Nam và giúp các DN trong nước tham gia nhiều hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu bằng cách tận dụng lợi thế về cam kết xuất xứ hàng hoá (RoO) trong RCEP, nâng cao tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan với các đối tác trong RCEP. “Sẽ không có những cú sốc về cắt giảm thuế quan hay cam kết mở cửa thị trường, nhưng RCEP được cho là sẽ mở rộng cánh cửa các chuỗi cung ứng mới cho DN Việt”, TS Trần Toàn Thắng nhấn mạnh.

Theo nhóm nghiên cứu, đầu tư FDI của các nước RCEP, đặc biệt là Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Trung Quốc sẽ tiếp tục định hình các chuỗi ở Việt Nam. Theo đó, cơ hội mở rộng tham gia vào chuỗi, nhưng mức độ khác nhau giữa các ngành. Trong đó, ngành điện tử tiếp tục có xu hướng tăng, ngành ô tô có cơ hội phát triển linh kiện; ngành dệt và may mặc tiếp tục đón nhận xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng vào Việt Nam, đặc biệt là nguyên phụ liệu may mặc, cạnh tranh tăng lên.

Mặc dù vậy, Việt Nam hiện phụ thuộc nhiều vào linh kiện, nguyên vật liệu nhập khẩu, nên xét về tổng thể RCEP có thể khiến Việt Nam NK nhiều hơn nếu không cải thiện được năng lực sản xuất trong nước. NCIF khuyến nghị, cần có chiến lược FDI mới, tập trung thu hút mạnh hơn vào thượng nguồn. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh XK ngoài khối RCEP; tăng cường năng lực công nghệ của các DN trong các ngành công nghiệp phụ trợ và lắp ráp trong nước.

Báo cáo “Ảnh hướng của Hiệp định RCEP tới định hình chuỗi cung ứng ở Việt Nam” tập trung vào 3 nội dung: Tổng quan các cam kết liên quan, đánh giá cơ cấu thương mại hàng hóa theo chuỗi cung ứng và mối quan hệ đầu tư giữa Việt Nam với các nước RCEP; phân tích lộ trình cắt giảm thuế quan và quy tắc xuất xứ RoO giữa Việt Nam với các nước RCEP, từ đó đánh giá tác động tới sự thay đổi chuỗi cung ứng ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp chính sách nhằm tăng cường hiệu quả thu hút FDI và cải thiện chuỗi cung ứng của Việt Nam.

Ngoài phân tích chung, Báo cáo tập trung sâu vào một số chuỗi cung ứng trong ngành chế biến chế tạo cụ thể bao gồm điện tử, ô tô, dệt, may. Đây là những nhóm ngành được đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay do có tỷ trọng XK và NK lớn. Tác động của RCEP về tái định hình các chuỗi cung ứng trong các nhóm ngành này trong trung và dài hạn sẽ ảnh hưởng tới cả tăng trưởng, đầu tư và XK của Việt Nam trong thời gian tới.