Chuyển đổi xanh ngành Công nghiệp: Ứng dụng nhiên liệu LNG nền tảng cho lộ trình giảm phát thải khí nhà kính
Chuyển đổi xanh sẽ nâng tầm vị thế Việt Nam |
Nhận thức và phản ánh rõ vai trò quan trọng từ tác động chính sách điều hành của Chính phủ, Bộ, ngành nhằm nâng cao nhận thức, chuyên môn của doanh nghiệp trong chủ trương phát triển bền vững, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng sạch, chiều 30/1, Báo Xây dựng phối hợp với Viện Đào tạo, Tư vấn và Phát triển Kinh tế (IDE) tổ chức Hội thảo "Chuyển đổi xanh ngành Công nghiệp: Ứng dụng nhiên liệu LNG nền tảng cho lộ trình giảm phát thải nhà kính". Tạp chí điện tử Kinh doanh và Phát triển là đơn vị bảo trợ truyền thông của Hội thảo.
Các đại biểu tham dự hội thảo |
Tham dự hội thảo có: PGS.TS Vũ Ngọc Anh - Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Xây dựng; TS. Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Trung tâm Thông tin, Phân tích và Dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương; Ông Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam; Ông Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh; TS. Nguyễn Hữu Lương - Chuyên gia cao cấp, Viện Dầu khí Việt Nam; Ông Võ Trí Thành - Chuyên gia kinh tế; Ông Đào Nhật Đình - Chuyên gia Hiệp Hội Năng lượng; Ông Nguyễn Văn Đính - Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam...
Trước những thách thức của biến đổi khí hậu về mọi mặt của nền kinh tế, xã hội, an ninh toàn cầu, mỗi quốc gia phải chủ động thích ứng nhằm hạn chế các tác động tiêu cực, đồng thời có trách nhiệm giảm phát thải khí nhà kính theo đóng góp do quốc gia tự quyết định thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu kể từ năm 2021 trở đi nhằm giữ cho mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng 1,5°C vào cuối thế kỷ này.
Trước những khó khăn trên, Chính phủ nói chung và Bộ Xây dựng nói riêng đã chủ động, tích cực tham gia vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính đạt mức phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Chính phủ đã đưa ra cam kết cùng cộng đồng quốc tế thực hiện mục tiêu này tại Hội nghị COP 26. Đây là một mục tiêu đầy tham vọng và để đạt được cần rất nhiều nguồn lực trong nước và quốc tế, cần sự chung tay cùng thực hiện của cả nền kinh tế.
TS. Nguyễn Hữu Lương |
TS. Nguyễn Hữu Lương - Chuyên gia cao cấp, Viện Dầu khí Việt Nam: Ứng dụng nhiên liệu LNG giảm thiểu tác động môi trường
LNG là khí thiên nhiên hóa lỏng được chuyển từ dạng khí sang dạng lỏng để thuận tiện cho quá trình vận chuyển. LNG được tạo ra bằng cách hạ nhiệt độ xuống âm sâu ở nhiệt độ -260 độ F (-162 độ C) ở áp suất khí quyển. Khi đó, khí thiên nhiên ở trạng thái khí sẽ chuyển sang trạng thái lỏng.
Khi chuyển từ trạng thái khí sang lỏng thì thể tích của khí thiên nhiên sẽ giảm đi 600 lần. LNG có thể tích bằng 1/600 lần so với thể tích khí thiên nhiên và chứa chủ yếu thành phần methane. Nếu muốn vận chuyển khí LNG ở một quãng đường dài khoảng trên 1.000 km thì phương thức vận chuyển thiên nhiên bằng cách hóa lỏng thành LNG sẽ là một phương thức hiệu quả về mặt kinh tế cho chi phí vận chuyển.
Chuỗi giá trị của LNG từ công đoạn sản xuất ban đầu cho đến khi sử dụng, chuỗi giá trị của LNG chủ yếu bao gồm: LNG thực chất là khí thiên nhiên, công đoạn đầu tiên trong chuỗi giá trị LNG là quá trình khai thác khí thiên nhiên hiện nay như Petro Việt Nam hoặc những Công ty dầu khí khác đang khai thác nguồn khí thiên nhiên ở ngoài khơi hoặc trong bờ.
Sau khi khai thác, khí thiên nhiên sẽ được đưa đến nhà máy sản xuất khí LNG, tại nhà máy này sẽ bao gồm hai nhiệm vụ chính: Thứ nhất, khí thiên nhiên sẽ được tiền xử lý để loại bỏ nước cũng như những tạp chất khác ra khỏi khí thiên nhiên nếu có. Sau khi được tiền xử lý sẽ được hạ xuống nhiệt độ -162 độ C để chuyển từ trạng thái khí sang trạng thái lỏng. Tại nhà máy này sẽ tồn chứa LNG trong những bồn chuyên dụng, thông thường là bồn hai lớp và có làm lạnh xuống ở nhiệt độ sâu. Sau đó, LNG sẽ được vận chuyển đến thị trường tiêu thụ có nhu cầu sử dụng khí thiên nhiên, thông thường những nơi có nhu cầu sử dụng sẽ ở rất xa, mang khoảng cách liên lục địa, khi ấy LNG ở trong bồn chứa của những nhà máy sẽ được đưa xuống những tàu LNG và được chứa ở những bồn chuyên dụng, khi đó tàu sẽ đến thị trường mong muốn và đến kho cảng, LNG sẽ được dỡ xuống để tồn trữ trong các bồn chuyên dụng.
Hiện nay, thị trường sử dụng chủ yếu của khí thiên nhiên sẽ là những nhà máy sản xuất điện, nhà máy sản xuất điện khí, nhà máy sản xuất điện LNG. Cạnh đó, LNG cũng sẽ được sử dụng trong công nghiệp và dịch vụ... Hiện trên thế giới cũng đã hình thành nên những tuyến đường vận chuyển LNG từ nơi sản xuất cho đến nơi tiêu thụ. LNG phân bố trữ lượng không đồng đều, ví dụ trữ lượng nhiều như khu vực Trung Đông, Nga... bên cạnh đó có những nơi trữ lượng thấp như Châu Âu.
LNG có thể được vận chuyển bằng đường biển (tàu) hoặc đường bộ (xe bồn, tank truck, xe lửa). LNG được vận chuyển bằng tàu khi khoảng cách vận chuyển tương đối xa, dung tích chứa phổ biến của tàu dao động từ 120.000-175.000 m3, các tàu mới có dung tích lên đến 267.000 m3, hiện có khoảng 300 tàu chở LNG đang hoạt động. LNG được vận chuyển bằng xe bồn/xe lửa khi khoảng cách vận chuyển gần, dung tích chứa của xe bồn xấp xỉ 6-20m3.
Ứng dụng của LNG bao gồm 5 ứng dụng chính, bao gồm: Dân dụng và thương mại như làm nhiên liệu để nấu ăn, sưởi ấm hộ gia đình và tòa nhà; Trong giao thông vận tải sẽ làm nhiên liệu để thay thế cho DO & FO; Trong Công nghiệp làm nhiên liệu để cung cấp năng lượng cho sản xuất thép, xi măng, gốm... Điện khí/LNG sạch hơn ½ phát thải so với điện than truyền thống, là bước chuyển tiếp từ than sang năng lượng tái tạo; Trong hóa chất/hóa dầu: sản xuất phân bón, các loại nhựa, xơ, sợi...
Trong công nghiệp, LNG là một loại nguyên liệu đốt sạch, sản sinh lượng khí thải CO2 ít hơn đáng kể so với các loại nhiên liệu hóa thạch truyền thống. LNG cũng hiệu quả hơn các dạng khí tự nhiên khác vì nó tiêu tốn ít năng lượng hơn để làm lỏng và vận chuyển trên khoảng cách dài. Với nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng bền vững, nhiều ngành Công nghiệp đang chuyển sang sử dụng LNG như một cách để giảm lượng khí thải carbon và tuân thủ các quy định.
Trong xây dựng, LNG là một nguồn nhiên liệu sạch hơn nhiều so với dầu Diesel truyền thống, có nghĩa là ít khí thải độc hại hơn tại các công trường xây dựng. Thiết bị xây dựng chạy bằng LNG có thể mang lại tiết kiệm chi phí đáng kể do chi phí nhiên liệu thấp hơn và tuổi thọ động cơ lâu hơn. LNG cũng có thể sử dụng tại các công trường xây dựng ở vùng sâu, vùng xa nơi các nguồn nhiên liệu khác có thể không dễ dàng tiếp cận.
Trong logistics vận tải, LNG là một nguồn nhiên liệu sạch hơn cho tàu vận tải, sản xuất ra lượng lưu huỳnh và chất thải rắn đáng kể ít hơn so với dầu DO truyền thống. Các tàu chạy bằng LNG cũng có thể yên tĩnh và tiết kiệm nhiên liệu hơn so với các tàu truyền thống. Với sự thúc đẩy toàn cầu về vận tải bền vững, nhiều công ty đang chuyển sang sử dụng LNG như một cách để tuân thủ các quy định và giảm thiểu tác động môi trường của họ.
Về nhu cầu thị trường khí Việt Nam, bao gồm khí tự nhiên nội địa và khí LNG nhập khẩu giai đoạn 2030-2050, cơ cấu nguồn cung khí tại Việt Nam từ nguồn mỏ trong nước sẽ chiếm từ 40%-45%, nhu cầu khí nhập khẩu LNG ở Việt Nam sẽ dao động từ 55%-60%. Nhu cầu sử dụng LNG sẽ tập trung tại 4 lĩnh vực: Sản xuất điện; Công nghiệp; Sản xuất phân bón và hóa dầu.
Trong bối cảnh về chuyển dịch năng lượng, có 4 xu hướng phát triển của LNG: Thứ nhất là LNG quy mô nhỏ, thứ hai là LNG trung hòa carbon, thứ ba là đồng đốt trong nhà máy điện, thứ năm là hydrogen lam.
TS. Nguyễn Tú Anh |
TS. Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Trung tâm Thông tin, Phân tích và Dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương: Tầm quan trọng trong việc giảm phát thải khí nhà kính
Việt Nam thiệt thòi vì phát triển sau, các quốc gia trước đó đã xả thải ra rất nhiều và nhờ các năng lượng hóa thạch. Từ 2001 đến nay, phát thải của Trung Quốc tăng vọt. Rõ ràng, quá trình phát triển đi đôi với phát thải khí nhà kính. Chúng ta đi sau, phát triển sau phải chấp nhận luật chơi. Phát thải từ 1945-1977 chủ yếu là ở các nước OCED. Cùng với nhận thức thì các nước OCED cắt giảm dần, đến 2010 có xu hướng giảm. Tuy nhiên vẫn chiếm 27%, Trung Quốc 25%, Việt Nam 1%, tăng 3 lần trong 30 năm trở lại đây.
Hậu quả gia tăng phát thải khí nhà kính: Tăng nhiệt độ Trái đất. Từ 2013 đến 2021, tăng 0,20 độ. Có liên kết rất chặt chẽ với phát thái nhà kính. Sa mạc mở rộng, đất đai xói mòn, nước biển dâng 0,2-0,4 m do băng tan. Mực nước biển Đông từ 93-10 tăng 4,5 mm/năm. Việt Nam là 2,8 mm/năm. 2050 dâng thêm 30 cm. Nếu nước biển nâng 1 m thì 4,4% lãnh thổ Việt Nam ảnh hưởng và 10% dân số ảnh hưởng trực tiếp.
Tỷ trọng phát thải khí nhà kính của Việt Nam: Năm 2021 lên mức 1%, rõ ràng trong hơn 30 năm tỷ trọng tăng lên 3 lần, tăng hơn tốc độ trung bình của thế giới. Quy mô GDP của Trung Quốc hơn Việt Nam 48 lần nhưng quy mô phát thải chỉ hơn Việt Nam 25 lần. Theo thống kê 65% từ năng lượng, ngoài ra các ngành công nghiệp, nông nghiệp ví dụ như nuôi bò, trồng lúa gây phát thải khí nhà kính. Đến 2030 dự báo sẽ tăng nhanh, đạt khoảng 927 triệu tấn C02.
Yêu cầu giảm phát thải: Việc giảm phát thải phải bắt nguồn từ bản thân mỗi người. Trong đó có môi trường sinh thái. Giảm phát thải khí nhà kính cũng là một khía cạnh của phát triển. Việt Nam là 1 trong 5 nước dễ bị tổn thương nhất do biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Ô nhiễm không khí xếp hạng 36/177 quốc gia vùng lãnh thổ. Nếu không thay đổi, tới năm 2050 GDP sẽ giảm 10-15%.
Yêu cầu từ môi trường kinh doanh bên ngoài: Yêu cầu từ các nước nhập khẩu về chứng chỉ sản xuất sạch (CRAM) với xi măng, phân bón, điện, hydrogen, sắt thép... Ý thức về môi trường của người dân ngày càng cao hơn.
Ngày 3/6/2013, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường: "Thúc đẩy các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện nước ta trên cơ sở hỗ trợ tài chính và công nghệ của các nước và tổ chức quốc tế". Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu số 2139/QĐ-TTg ngày 5/12/2011, được thay thế bởi Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh tại Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 và được thay thế bởi Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021. Nhiệm vụ trọng tâm được đặt ra là giảm phát thải khí nhà kính với những chỉ tiêu cụ thể nhằm phát triển nền kinh tế carbon thấp. Việt Nam đã phê duyệt Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu vào ngày 31/10/2016. Việt Nam đã xây dựng và trình UNFCCC đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), cập nhật NDC năm 2020 với mức cắt giảm 9% bằng nguồn lực trong nước tương dương 83,9 triệu tấn CO2 tương dương, cắt giảm 27% khi có hỗ trợ quốc tế, tương đương 250,8 triệu tấn CO2 tương đương so với Kịch bản phát triển thông thường trong giai đoạn 2021-2030. Tại COP 27 2022, Việt Nam đã nộp Báo cáo đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật, trong đó đã tăng mức đóng góp giảm phát thải khí nhà kính không điều kiện đến năm 2030 từ 9% lên 15,8%; và đóng góp có điều kiện từ 27% lên 43,5% so với kịch bản phát triển thông thường.
Chuyển đổi sang năng lượng sạch đòi hỏi một nguồn lực khổng lồ. Ước tính chỉ để chuyển đổi năng lượng than sang năng lượng tái tạo mỗi năm Việt Nam cần từ 25 tỷ - 30 tỷ USD. Năng lượng tái tạo phụ thuộc hoàn toàn vào công nghệ nước ngoài: Khả năng tự chủ cho an ninh năng lượng thấp. Chi phí năng lượng tái tạo vẫn cao, tạo gánh nặng lên cho nền kinh tế, giảm khả năng tiếp cận năng lượng đối với người nghèo. Nhu cầu năng lượng cho phát triển tăng nhanh.
Việt Nam có lợi thế tỷ lệ phủ rừng tăng nhanh lên 60%, nhanh nhất thế giới. Do đó, phát triển Thị trường tín chỉ carbon là một lựa chọn tốt. Thị trường carbon tuân thủ quốc gia mặc dù đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường từ năm 2005, tuy nhiên đến nay, Việt Nam chưa triển khai thị trường carbon tuân thủ trên thực tế.
Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện khung khổ pháp lý, đầu tư chuẩn bị cơ sở hạ tầng để thí điểm thị trường carbon tuân thủ quốc gia BTS từ năm 2025, tiến tới triển khai chính thức carbon tuân thủ quốc gia ETS từ năm 2028. Cần phải có hệ thống đo kiểm carbon được xác nhận hạn ngạch carbon → tín chỉ carbon. Phát triển công nghệ CCUS, tức là các công nghệ nắm bắt và lưu trữ carbon. Những đơn vị có thể làm được sẽ có tín chỉ carbon, từ đó sẽ hình thành nền kinh tế carbon.
Hiện nay, tín chỉ carbon thu được từ chương trình, dự án theo điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên như các dự án Phát triển sạch (Clean Development model - CDM) theo cơ chế của Ban Chấp hành quốc tế về CDM thuộc Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu, hoặc các dự án theo Cơ chế tín chỉ chung (Joint Credit Mechanism - JCM) do Ủy ban hỗn hợp thực hiện Cơ chế JCM giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản thực hiện theo thỏa thuận quốc tế về Cơ chế tín chỉ chung giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được cấp và xác nhận tại Việt Nam. Hiện nay, bán tín chỉ carbon chỉ mới theo cơ chế CDM mà chưa có được các cơ chế khác. Tuy nhiên, những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, hơn 51 triệu USD đã bán được.
TS. Nguyễn Quốc Thập |
TS. Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam: Gỡ nút thắt nhằm hiện thực hóa mục tiêu điện khí LNG
Thị trường tiêu thụ điện tăng chậm so với mục tiêu trong các quy hoạch điện; Thiếu khung pháp lý để hoàn thành đàm phán và ký kết các thỏa thuận pháp luật, kinh tế, thương mại giữa các chủ thể trong chuỗi dự án đến khí LNG; Bỏ bảo lãnh Chính phủ, nhưng các doanh nghiệp lại chưa đủ hành lang pháp lý để bảo lãnh thay thế; Chính vì vậy làm khó khăn hơn cho hợp đồng mua bán điện.
Vấn đề bảo lãnh/bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ, nội tệ và nghĩa vụ thanh toán quốc tế về nhập khẩu LNG; Khi mua LNG thì thường phải trả bằng ngoại tệ, nhưng thu bằng tiền đồng. Nhà đầu tư phải chuyển đổi tiền nhưng nhà đầu tư yêu cầu phải bảo lãnh về khối lượng và tỷ giá.
Vấn đề ban hành khung giá phát điện cho Nhà máy phát điện khí LNG vẫn còn đang nghiên cứu xem xét; Bộ Công Thương cho đến nay vẫn chưa thực hiện được do Luật Điện lực chưa cho phép thực hiện. Trong khi đó, Luật Giá đã cho phép tính đúng, tính đủ về cơ cấu giá thành.
Vấn đề cam kết tổng sản lượng điện mua hàng năm và cam kết bao tiêu sản lượng khí LNG hàng năm đang là một thách thức. Bởi, EVN được mua điện của các nhà máy và bán ra theo sự điều tiết, đầu vào lại phải đi đàm phán với các nhà máy.
Vấn đề cam kết về đường dây truyền tải và đầu nối của dự án cũng là vấn đề gặp rất nhiều khó khăn. Từ đó dẫn tới nguy cơ mất kiểm soát tiến độ của chuỗi các dự án điện khí LNG. Hiện còn chưa tới 6 năm để thực hiện các mục tiêu.
Khó khăn và thách thức lớn nhất hiện nay: Thiếu cơ chế, chính sách cho mọi hoạt động của chuỗi khi điện LNG và tiêu thụ điện LNG; Hành lang pháp lý cho hoạt động độc lập và tự chủ của PVN/EVN còn thiểu khi Chính phủ không còn bảo lãnh cho tất cả các loại hình dự án; Cách tiếp cận và xử lý của cơ quan quản lý các cấp như hiện tại sẽ làm giảm hiệu quả và nhiệt huyết của các nhà đầu tư và đối tác trong chuỗi dự án.
Các nhóm giải pháp cần tập trung:
Thay đổi nhận thức và tư duy: Điện khí LNG không phải chỉ có kho cảng LNG và Nhà máy điện, điện khí LNG cần được hấp thụ bởi các khu/cụm công nghiệp và các nhà máy; Điện khí LNG cần được vận hành theo thông lệ quốc tế, đó là thị trường và thị trường dài hạn; Giá điện và giá khí LNG cần phải neo theo giá dầu thô trong công thức giá; Các cam kết dài hạn và thị trường cũng là các điều kiện cần và đủ để hiện thực hóa các dự án khí điện LNG theo Quy hoạch. Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ điện theo sát với mục tiêu trong các quy hoạch Điện: Quy hoạch, xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, Nhà máy điện và các khu công nghiệp/nhà máy có quy mô sử dụng điện đủ lớn; Thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình khu công nghiệp/nhà máy cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG; Kích cầu điện, kích thích sản xuất, kích thích tiêu dùng; Tháo gỡ nút thắt liên quan đến cam kết huy động tổng sản lượng điện.
Sửa đổi Luật Điện lực, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Thuế, Luật Đầu tư và các Nghị định hướng dẫn: Quy hoạch, xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, Nhà máy điện và các khu công nghiệp/nhà máy có quy mô sử dụng điện đủ lớn; Thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình khu công nghiệp/nhà máy cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG; Kích cầu điện, kích thích sản xuất, kích thích tiêu thụ; Tháo gỡ nút thắt liên quan đến cam kết huy động tổng sản lượng điện.
Cập nhật và sửa đổi Điều lệ và Quy chế tài chính của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước: Đảm bảo các doanh nghiệp có đầy đủ cơ sở pháp lý để cam kết và thế chấp với các chủ thể trong Hợp đồng mua bán LNG và mua bán điện; Các Tập đoàn kinh tế Nhà nước được quyền cam kết và thế chấp tài sản hay dòng tiền của Tập đoàn trong các giao dịch pháp luật - kinh tế - thương mại; Nút thắt về báo lãnh Chính phủ được tháo gỡ.
Cam kết bảo lãnh/bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ/nội tệ: Chính phủ Ngân hàng Nhà nước cam kết đảm bảo về khối lượng cho nhà đầu tư. Tỷ giá sẽ do thị trường quyết định. Rủi ro khi đó sẽ do thị trường quyết định. Nút thắt về cam kết bảo lãnh/bảo đảm chuyền đồi ngoại tệ/nội tệ và nghĩa vụ thanh toán quốc tế về nhập khẩu LNG được tháo gỡ.
Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế: Có cơ hội để xây dựng cơ chế chính sách điện khí LNG nói riêng và năng lượng nói chung; Có cơ hội để xây dựng mô hình quản trị đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác sử dụng hiệu quả và tối ưu điện khí LNG; Lựa chọn được các nhà đầu tư có tiềm lực về công nghiệp, tài chính và kinh nghiệm triển khai; Hợp tác quốc tế là một trong các điều kiện cần và đủ để hiện thực hóa các dự án khí điện LNG theo Quy hoạch Điện 8 và Quy hoạch năng lượng quốc gia.
Cần thiết một Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội để đảm bảo mục tiêu Quy hoạch năng lượng và Quy hoạch Điện 8. Có cơ hội để xây dựng cơ chế chính sách điện khí LNG nói riêng và năng lượng nói chung. Có cơ hội để xây dựng mô hình quản trị đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác sử dụng hiệu quả và tối ưu điện khi LNG. Lựa chọn được các nhà đầu tư có tiềm lực về công nghiệp, tài chính và kinh nghiệm triển khai. Hợp tác quốc tế là một trong các điều kiện cần và đủ để hiện thực hóa các dự án khí điện LNG theo Quy hoạch Điện 8 và quy hoạch năng lượng Quốc gia.
Theo ông Nguyễn Quốc Thập, các điều kiện tiên quyết hay điều kiện cần và đủ hay chìa khóa để hiện thực hóa các dự án khí điện LNG theo Quy hoạch điện 8 là: Các cam kết dài hạn, trung hạn và ngắn hạn; Cơ chế thị trường cho chuỗi khí điện LNG và các hộ tiêu thụ điện; Đổi mới nhận thức và tư duy từ xây dựng cơ chế chính sách, tới triển khai thực hiện; Hợp tác quốc tế sâu rộng; Cần thiết có một Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội cho lĩnh vực năng lượng, trong đó có điện khí LNG.
Phân tích, nhận định đa chiều, khách quan về tầm quan trọng việc chuyển đổi năng lượng sạch
Toàn cảnh Hội thảo |
Tham gia phần Tọa đàm tại Hội thảo, các chuyên gia: TS. Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam; TS. Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương; Ông Võ Trí Thành - Chuyên gia kinh tế; Ông Đào Nhật Đình - Chuyên gia Hiệp hội Năng lượng; Ông Nguyễn Văn Đính - Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam đã tập trung trao đổi về các nhóm giải pháp của việc chuyển đổi năng lượng sạch. Cung cấp kiến thức cho doanh nghiệp về ứng dụng khí LNG trong khu đô thị, nhà máy sản xuất điện, khu công nghiệp...
TS. Nguyễn Tú Anh cho biết: Khi chúng ta phát triển được Thị trường tín chỉ carbon tự nguyện sẽ phân bổ tín chỉ cho các doanh nghiệp. Hiện giá bán trong nước và nước ngoài lệch nhau nhưng khi tín chỉ được thừa nhận khắp thế giới thì đó là chứng nhận được thị trường điều tiết và cân bằng. Chi phí giao dịch sẽ được điều tiết bởi thị trường, nếu thị trường đồng bộ thì sẽ được hỗ trợ hạn ngạch. Ở một số nước, phải đấu thầu để hỗ trợ lại doanh nghiệp một khoản thu để phát triển. Khi chuyển đổi năng lượng, cần một cơ chế chuyển đổi công bằng để hỗ trợ các nước thực hiện chuyển đổi. Trong cơ chế chính sách, Bộ Tài chính đang nghiên cứu sẽ có khoản thuế, ví dụ nhà máy A phát thải 1 triệu tấn carbon, có thể miễn phí. Sau đó có thể đấu giá, lấy chi phí tài trợ cho các doanh nghiệp chuyển đổi xanh.
TS. Nguyễn Quốc Thập cho biết: Bài toán chuyển đổi khí tự nhiên đặt ra đối với công tác vận chuyển và trong tương lai là phí phát thải, phí rác thải. Năm 2024, 2025 việc đánh giá hiệu quả có những biến động lớn.
Nhiều chuyên gia đều đồng ý với việc kiến nghị tạo hành lang pháp lý. Trong Quy hoạch điện 8 cũng đã có sự phân công cho các Bộ, ngành để sửa đổi các quy định pháp luật liên quan. Giải pháp có tính quyết định nhất là phải có Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội trong điều kiện chúng ta còn thiếu khung pháp lý. Chính phủ cần có hỗ trợ điều chỉnh cho các Tập đoàn kinh tế Nhà nước để có thể triển khai các chuỗi dự án điện khí LNG. Nếu không có được Nghị quyết này sẽ khó thực hiện Quy hoạch mà Chính phủ đã phê duyệt.
Trả lời câu hỏi của phóng viên về việc thất thoát khí metan tạo lượng phát thải ra môi trường thì giải pháp của các đơn vị sản xuất được áp dụng như thế nào, ông Đào Nhật Đình - Chuyên gia của Hiệp hội Năng lượng cho biết: Lượng thất thoát chỉ chiếm 4-5%. Dù khí nào thì đều thất thoát, nếu thất thoát từ mỏ đến nhà máy thì lượng phát thải CO2 bằng nửa than, CH4 tương đương. Về tính kinh tế, do xung đột quân sự Nga - Ukraine thì giá điện ở Đức (sử dụng khí) tăng lên 50 cent/kWh tương đương khoảng 13.000 đồng/kWh. Hiện giá LNG là 13-15 USD/ptu. Ở Đồng Nai, khi làm gốm đốt bằng khí LNG thì sản phẩm đẹp hơn.
Trả lời câu hỏi bao lâu thì thu hồi vốn đầu tư khi chuyển đổi sang đề án Điện khí NLG, chuyên gia Võ Trí Thành cho biết, cam kết sau 2030 của các nhà máy thu hồi carbon nếu an toàn thì khả năng chúng ta quay lại sử dụng điện hạt nhân.
"Hiện thị trường điện khí NLG có nhiều biến động ảnh hưởng bởi tình hình chính trị trên thế giới. Tuy nhiên thị trường dài hạn điện khí NLG sẽ không bị ảnh hưởng nhiều bởi địa chính trị", TS. Nguyễn Quốc Thập cho biết.
TS. Nguyễn Tú Anh chia sẻ "Chi phí bù giá cho điện khí NLG hiện đang khó nhất. Việt Nam hiện đang nhập khẩu và chưa làm chủ được công nghệ, nếu bỏ ra 2,8 tỷ USD đề bù giá mỗi năm là một con số lớn. Đây cũng là thách thức lớn cho thị trường điện khí NLG".
Trả lời thắc mắc liên quan của PV nếu không thực hiện được sơ đồ Quy hoạch điện 8 đến năm 2030 thì chúng ta sẽ sử dụng nguồn nào? Ông Đào Nhật Đình - Chuyên gia của Hiệp hội Năng lượng trả lời "Việt Nam đã khẳng định và sẽ nỗ lực hết sức để hoàn thành sơ đồ đã được phê duyệt".
Về lộ trình cho điện khí NLG đến với người dùng hộ tiêu thụ, TS. Nguyễn Quốc Thập mong muốn các khách hàng quan tâm có thể tìm hiểu thêm và cùng liên kết để ra được lộ trình tiêu thụ cho các hộ tiêu thụ. Hiện đã có hệ thống kho trữ tại các địa phương miền Bắc do PV GAS và PV Power, tại Thái Bình có kho cảng NLG; miền Nam là cảng Thị Vải (PV GAS) và Sơn Mỹ (Liên doanh ADS của Mỹ và PV GAS). Các nhà máy điện chưa có hộ tiêu thụ, Hội Dầu khí Việt Nam sẵn sàng làm cầu nối để đưa các sản phẩm điện khí NLG hiện thực hóa trong Quy hoạch điện 8./.