Đề xuất quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với Fintech trong lĩnh vực ngân hàng
4 mục tiêu khi áp dụng cơ chế thử nghiệm
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã công bố dự thảo Nghị định quy định đối với cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng để tiến hành lấy ý kiến. Theo như dự thảo, việc xây dựng cơ chế thử nghiệm nhằm hướng đến 4 mục tiêu chính.
Mục tiêu thứ nhất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa lĩnh vực ngân hàng, hiện thực hóa mục tiêu phổ cập tài chính cho người dân lẫn doanh nghiệp theo hướng minh bạch, an toàn, thuận tiện và hiệu quả, chi phí thấp.
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã công bố dự thảo Nghị định quy định đối với cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng để tiến hành lấy ý kiến. (Ảnh minh họa) |
Mục đích thứ hai, tạo lập nên một môi trường thử nghiệm để đánh giá rủi ro, chi phí cũng như lợi ích của giải pháp Fintech; hỗ trợ xây dựng và phát triển loạt giải pháp Fintech sao cho phù hợp với nhu cầu thị trường, khung khổ và quy định quản lý.
Mục đích thứ ba là hạn chế rủi ro có thể xảy ra của khách hàng trong quá trình sử dụng các giải pháp Fintech tham gia thử nghiệm vẫn chưa được quy định trong khung khổ pháp lý cũng như quy định quản lý chính thức.
Mục đích thứ tư, sử dụng kết quả triển khai thử nghiệm giải pháp Fintech làm căn cứ thực tiễn để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý và quy định quản lý có liên quan.
3 giải pháp Fintech thử nghiệm
Căn cứ vào thực tiễn khảo sát và đánh giá thực trạng loạt lĩnh vực hoạt động của các công ty Fintech tại Việt Nam, rà soát những quy định pháp lý hiện hành, Ngân hàng Nhà nước tại dự thảo đã rà soát, phân loại và đề xuất lựa chọn 3 giải pháp Fintech thử nghiệm sở hữu nhiều tiềm năng và nhu cầu nhất tại Việt Nam, phù hợp với trình độ phát triển, năng lực quản lý, đó là: Chấm điểm tín dụng, chia sẻ dữ liệu thông qua giao dịch lập trình ứng dụng mở (Open API) và cuối cùng là cho vay ngang hàng.
Ngân hàng Nhà nước trong dự thảo tờ trình Chính phủ cho biết, ngành ngân hàng thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong thời gian qua đã chứng kiến xu hướng ứng dụng mạnh mẽ của loạt công nghệ mới gắn liền với thành tựu của CM 4.0 điển hình như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn (Big data Analytics) và chia sẻ dữ liệu qua giao diện lập trình ứng dụng mở (open API), chuỗi khối (Blockchain), trí tuệ nhân tạo (AI)... được tích hợp vào các mô hình kinh doanh, cung ứng sản phẩm cũng như dịch vụ, cách thức tiếp cận và tương tác với khách hàng của loạt ngân hàng, tổ chức tín dụng với mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động, gia tăng trải nghiệm khách hàng, từ đó giúp khách hàng giao dịch hiệu quả, nhanh chóng, an toàn và thuận tiện hơn cùng các dịch vụ phù hợp, chi phí hợp lý.
Việc Fintech phát triển mạnh, mở rộng phạm vi nhanh chóng khiến cơ quan quản lý tài chính, tiền tệ của nhiều quốc gia đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. (Ảnh minh họa) |
Xu hướng phát triển Fintech tại Việt Nam còn được thể hiện rõ ràng qua loạt startup công nghệ, những tổ chức không phải ngân hàng nhưng có thế mạnh công nghệ tham gia các mảng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính dưới hình thức phát triển loạt giải pháp hỗ trợ hoạt động ngân hàng, không trực tiếp cung ứng dịch vụ đến người dùng cuối hoặc trực tiếp cung ứng các giải pháp mới một cách độc lập.
Trong vài năm gần đây, nhiều công ty Fintech đã hình thành và phát triển, tham gia nhiều mảng và lĩnh vực hoạt động khác nhau như thanh toán, chấm điểm tín dụng, cho vay ngang hàng (P2P Lending) và quản lý tài chính cá nhân. Chưa kể, lĩnh vực Fintech còn thu hút nhiều công ty, doanh nghiệp công nghệ lớn trong nước tham gia. Thường là những công ty có thế mạnh công nghệ thông qua loạt hoạt động trực tiếp để đầu tư, tạo nên các công ty Fintech; hoặc gián tiếp thông qua việc thành lập các quỹ đầu tư để tạo ‘vườn ươm’, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực Fintech.
Việc Fintech phát triển mạnh, mở rộng phạm vi nhanh chóng khiến cơ quan quản lý tài chính, tiền tệ của nhiều quốc gia đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong công tác quản lý và giám sát, bao gồm nguy cơ rửa tiền và tài trợ khủng bố (AML/CFT), bảo vệ dữ liệu người dùng, đảm bảo an ninh mạng, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và nhà đầu tư.
Vì thế, Ngân hàng Nhà nước cùng một số cơ quan liên quan cũng đối mặt với nhiều thách thức mới trong công tác quản lý Nhà nước khi các công ty Fintech xuất hiện, cung ứng hoặc tham gia, hợp tác cung ứng dịch vụ và giải pháp trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.
Tiến hành quản lý theo hướng có lợi cho doanh nghiệp
Tờ trình này cũng cho thấy, hầu hết các mảng và lĩnh vực hoạt động nói trên của các công ty Fintech hiện vẫn chưa có khung pháp lý toàn diện hoặc quy định pháp lý cụ thể nhằm tiến hành điều chỉnh. Điều này có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro và hệ lụy tiêu cực.
Ngoài ra, xu hướng phát triển đan xen đã đặt ra nhiều thách thức về mặt chính sách và quy định với các cơ quan quản lý nhà nước để có thể hài hòa thúc đẩy đổi mới sáng tạo cũng như cạnh tranh công bằng giữa loạt tổ chức tài chính truyền thống và các công ty Fintech, đảm bảo tài chính ổn định, bảo vệ người tiêu dùng và an ninh mạng.
Ví dụ, hoạt động P2P Lending nổi lên tại Việt Nam thời gian gần đây, một số công ty đã lấy danh nghĩa mô hình này, từ đó lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân để lừa gạt, quảng cáo sai sự thật, hứa hẹn lợi nhuận/ lãi suất cao để lừa đảo, chiếm đoạt tiền vốn mà người dân bỏ ra đầu tư; hoặc lừa dối người vay về mức lãi suất thấp và điều kiện vay ưu đãi nhưng lại tính và áp dụng lãi suất thực tế cao chót vót, tác động tiêu cực đến cuộc sống người dân.
Một số thỏa thuận giữa các bên tham gia mô hình P2P Lending chưa được rõ ràng, thiếu ràng buộc có tính pháp lý, chưa có cơ chế giám sát và hậu kiểm với việc sử dụng và quản lý vốn vay đúng mục đích của người vay. (Ảnh minh họa) |
Bên cạnh đó, một số thỏa thuận giữa các bên tham gia mô hình P2P Lending chưa được rõ ràng, thiếu ràng buộc có tính pháp lý, cũng chưa có cơ chế giám sát và hậu kiểm với việc sử dụng và quản lý vốn vay đúng mục đích của người vay, dễ dẫn đến tranh chấp và khiếu kiện.
Dựa trên bình diện khu vực lẫn quốc tế, nhiều nước trên thế giới đã có cách tiếp cận chủ động thông qua việc thiết lập cơ chế thử nghiệm có kiểm soát với hoạt động Fintech, ‘đáp trả’ sự nổi lên của Fintech thông qua các thực thể độc lập (như các công ty khởi nghiệp Fintech) hoặc với tư cách là giải pháp công nghệ được ứng dụng và triển khai trong cung ứng dịch vụ, giải pháp của những tổ chức tài chính truyền thống.
Một trong những công cụ, chính sách tiếp cận ưa thích nhất được nhiều nước áp dụng là cơ chế thử nghiệm, giúp tăng tốc việc đổi mới sáng tạo và tăng cường cạnh tranh, nâng cao hiệu quả trong ngành ngân hàng - tài chính bằng việc cho phép thử nghiệm loạt giải pháp Fintech thông qua các giao dịch thật trong môi trường có kiểm soát, được giới hạn về quy mô, phạm vi và thời gian thử nghiệm.
Những giải pháp Fintech tham gia cơ chế thử nghiệm được cơ quan quản lý ngân hàng - tài chính giám sát thường xuyên, liên tục, hạn chế tối đa rủi ro và hệ lụy phát sinh. Thông tin, kết quả thử nghiệm sẽ là cơ sở và căn cứ để các cơ quan quản lý, giám sát và nhà cung ứng dịch vụ tiềm năng tham gia cơ chế thử nghiệm đánh giá tính khả thi, rủi ro và lợi ích của giải pháp để có quyết định phù hợp.
Với dự thảo Nghị định mới, mục đích của Chính phủ là tạo nên một cơ chế khuyến khích, tạo thuận lợi cho các tổ chức và doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, phát triển, cung ứng/hợp tác cung ứng loạt giải pháp, dịch vụ ngân hàng - tài chính mới dựa trên các ứng dụng công nghệ, mô hình kinh doanh đổi mới sáng tạo; đồng thời cho phép các tổ chức tín dụng và công ty Fintech được tiến hành thử nghiệm các giải pháp Fintech chưa có khung khổ pháp lý điều chỉnh trong môi trường có kiểm soát đặt dưới sự giám sát của cơ quan quản lý…/.